Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P4)
Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P4): Sự tình có cong có thẳng, lời nói có đúng có sai. Vì để tranh mình đúng, người sai mà hai bên phát sinh tranh cãi, từ tranh cãi sẽ sinh ra phẫn nộ. Đây là do người nữ không biết kính thuận, khiêm hạ mà nên.
PHU SỰ HỮU KHÚC TRỰC, NGÔN HỮU THỊ PHI, TRỰC GIẢ BẤT NĂNG BẤT TRANH, KHÚC GIẢ BẤT NĂNG BẤT TỤNG, TỤNG TRANH KÝ THI, TẮC HỮU PHẪN NỘ CHI SỰ HĨ, THỬ DO Ư BẤT THƯỢNG KÍNH HẠ GIẢ DÃ
(Tạm dịch: Sự tình có cong có thẳng, lời nói có đúng có sai. Vì để tranh mình đúng, người sai mà hai bên phát sinh tranh cãi, từ tranh cãi sẽ sinh ra phẫn nộ. Đây là do người nữ không biết kính thuận, khiêm hạ mà nên)
“Khúc trực” nghĩa là bản thân vốn không hiểu đạo lý, vốn cong quẹo nhưng muốn làm cho thẳng, làm việc không có đạo lý và cứng nhắc. “Ngôn hữu thị phi” nghĩa là trong lời nói có thị phi, chính là có đối lập, có đối lập thì sẽ sinh ra chiến tranh, nếu giữa vợ chồng mà dễ dàng bất hòa thì không thể “gia hòa vạn sự hưng được”. Nên từ đâu mà hòa? Từ trên lời nói, nên kiểm điểm lời nói của mình, có bàn chuyện đúng sai của người khác không. Xin nêu lên một ví dụ đơn giản, tôi đúng còn chồng của tôi sai rồi, hoặc là tôi đúng rồi, mẹ chồng tôi sai rồi. Nếu như có vấn đề như thế thì gọi là “ngôn hữu thị phi”. “Trực giả bất năng bất tranh, khúc giả bất năng bất tụng” có nghĩa là bản thân mình cho rằng sự việc nào có đạo lý thì phải chanh chấp đến cùng, cho rằng bản thân rất bị thiệt thòi cần phải kiện cáo lên quan. Nếu như có cái tâm tranh tụng đó thì những sự việc khiến mình phẫn nộ sẽ dễ sinh ra. Đây đều là do không biết đạo lý khoan dung, nhu thuận, kính thuận, khiêm nhường. Những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh trong gia đình thường ngày chúng ta không nên tranh tụng. Chúng ta cần phải kiên định thực hiện “nhân nghĩa đại đạo”. Thế nào là “nhân nghĩa đại đạo”? Đó chính là năm mối quan hệ ngũ luân: Phụ từ tử hiếu, huynh hữu đệ cung, phu nghĩa phụ thính, trưởng huệ ấu thuận, quân nhân thần trung. Mười điều nghĩa này là nhân nghĩa. Mười điều nghĩa này nhìn có vẻ như đơn giản nhưng nghĩa lý lại thâm sâu, nhìn không thấy đáy, dưới một tầng nghĩa còn có một tầng nghĩa sâu nữa, nhìn được rốt ráo thì gọi là “thông đạt thần minh”, thông hiểu mọi thứ, đạt được cứu cánh. Nếu như chưa làm được rốt ráo thì rất nhiều sự việc không thể thấu triệt, giữa các sự việc sẽ có mâu thuẫn, lý sẽ không được sâu.
Tôi xin nêu một vài ví dụ trong “Liệt Nữ Truyện” để xem các vị ấy đã kính thuận như thế nào, đạo vợ chồng chung sống với nhau ra sao. Chúng ta cùng xem truyện “Sở Trang Phàn Cơ”. Phàn Cơ là thê tử của Sở Trang Vương. Lúc Sở Trang Vương mới lên ngôi thì thích đi săn. Phàn Cơ can ngăn mấy lần đều không được nên nàng đã không ăn thịt những động vật bị Sở Vương săn. Sở Vương nhân đó mà thay đổi, bắt đầu tinh tấn đối với việc triều chính. Có một lần, Sở Vương có một buổi hạ triều muộn, Phàn Cơ xuống điện nghênh tiếp hỏi han Vua vì sao hôm nay xuống triều trễ, có đói và mệt hay không. Sở Vương nói rằng ông nói chuyện với một vị đại thần hiền đức nên quên cả đói khát, mệt mỏi. Phàn Cơ hỏi Vua vị hiền giả này là ai. Vua trả lời là Ngu Khâu Tử. Phàn Cơ liền che miệng cười, Sở Vương hỏi: “Vì sao nàng lại cười? Vị đại thần này thật là người hiền mà!”. Phàn Cơ nói Ngu Khâu Tử là người hiền đức, nhưng đáng tiếc không đủ trung thành. Sở Vương hỏi vì sao lại nói như vậy. Phàn Cơ nói: “Thiếp phụng sự Hoàng Thượng mười một năm qua, đã từng phái người đi đến các nước như nước Trịnh, nước Vệ tìm kiếm mỹ nữ để dâng lên cho Hoàng Thượng. Hiện nay đã có hai người còn hiền thục hơn cả thiếp, có bảy người tương xứng với thiếp. Thiếp há không muốn chỉ được Hoàng Thượng ân sủng thôi sao?”. Đoạn này chúng ta thấy Phàn Cơ giống như bà Thái Tự của triều nhà Chu. Phần trước chúng ta nói về ý nghĩa của bài thơ “Quan Thư”. Bài thơ “Quan Thư” trên thực tế là ví dụ cho đức hạnh của bà Thái Tự. Bà cũng đi tìm những cô gái hiền thục, hiền đức để tiến vào trong triều, cùng với bà phò tá Chu Văn Vương thành tựu đại nghiệp trăm năm của nhà Chu. Đức hạnh này của bà chính là sự thể hiện bà không có tâm đố kỵ, thứ hai là bà có tầm nhìn chiến lược xa rộng. Bà là vì người trong thiên hạ mới làm ra như thế, chứ không vì tình cảm riêng tư của chính mình.

Tiếp theo Phàn Cơ nói: “Ngu Khâu Tử làm Tể Tướng mười mấy năm ở nước Sở. Những người mà ông ấy tiến cử nếu không phải là học trò của mình thì cũng là người thân của mình, trước giờ chưa từng tiến cử bậc nhân sĩ hiền đức, loại bỏ kẻ bất hiếu. Đây chẳng phải là che mắt quân vương, vùi lấp người tài hay sao? Người như ông ấy, biết người hiền đức mà không tiến cử thì là bất trung, không nhận ra tài năng của người tài thì là kẻ hồ đồ. Thế nên thiếp mới cười. Chẳng lẽ không đúng hay sao?”
Các bạn xem phụ nữ thời xưa thật lợi hại. Họ có năng lực như thế thì mới có thể phò tá Quân Vương thành tựu đại nghiệp của một quốc gia được. Sở Trang Vương cảm thấy những gì Phàn Cơ nói rất có đạo lý. Ngày hôm sau, ông đã đem lời nói của Phàn Cơ kể cho Ngu Khâu Tử nghe. Ngu Khâu Tử đứng lên nhưng không biết trả lời thế nào. Thế nên, ông đã rời khỏi đất nước, phái người nghênh tiếp Tôn Thúc Ngao tiến cử cho nhà Vua. Sở Vương phong cho Tôn Thúc Ngao làm Lệnh Doãn. Ông trị lý nước Sở được ba năm thì Sở Vương nhờ đó mà xưng bá. Câu chuyện về Tôn Thúc Ngao chúng ta đã được nghe kể qua rồi. Tôn Thúc Ngao là do mẹ ông bồi dưỡng nên người. Câu chuyện nổi tiếng nhất đó là “Câu chuyện đánh chết Rắn hai đầu”. Vì sao ông đánh nó chết? Ông sợ người khác nhìn thấy rắn hai đầu sẽ gặp xui xẻo mà chết nên ông đã quyết định đánh chết nó rồi đem đi chôn. Năm đó ông chỉ có 6-7 tuổi. Về nhà, ông nhìn thấy mẹ rồi khóc. Mẹ ông ngạc nhiên hỏi vì sao ông khóc. Ông nói: “Chắc là con sắp chết rồi!”. Người mẹ hỏi rõ sự tình, sau khi nghe xong bà nói một câu, câu này được ghi lại trong “Liệt Nữ Truyện” đó là: “Có đức sẽ gặp trăm điều may, lòng nhân trừ được trăm mối họa”. Bạn có đức hạnh thì sẽ gặp được một trăm điều cát tường may mắn. Chữ “bách” có nghĩa là rất nhiều. Nếu bạn có lòng nhân thì sẽ tránh xa được tất cả họa hoạn. Tiếp theo mẹ của ông nói: “Con là người như thế sẽ không bị chết đâu, không những không chết mà còn làm chức quan lớn nữa”. Quả nhiên Tôn Thúc Ngao sau khi lớn lên đã được như vậy.
Từ câu chuyện về nàng Phàn Cơ chúng ta có thể thấy rằng một người phụ nữ làm được chữ “thuận” là làm như thế nào. Là không câu nệ, tính toán, tranh hơn thua ở những việc nhỏ trong gia đình mà bà giúp chồng thành tựu đức hạnh để làm sự nghiệp lớn. Bà thành tựu việc tìm kiếm người kết giao với chồng chính là “thuận”.
Câu chuyện thứ hai cũng rất nổi tiếng tên là “Đào Đáp Tử Thê”, nói về người vợ của Đáp Tử. Đáp Tử làm quan tại một địa phương tên Đào được ba năm, không được tiếng tăm gì, nhưng của cải trong nhà tăng lên gấp ba lần. Vợ của ông đã mấy lần khuyên ông đừng thâu nạp những tài vật riêng tư cho mình như vậy. Sau khi làm quan được năm năm, nhà ông có trăm cỗ xe. Lúc ông về hưu thì họ hàng dắt trâu, mang rượu đến chúc mừng ông nhưng vợ của ông ôm lấy đứa con đứng qua một bên khóc một mình. Người mẹ chồng nhìn thấy rất tức giận nói: “Ngươi thấy con trai của ta công thành danh toại thoái quan mà đứng đó khóc thật là xui xẻo” Người con dâu nói: “Chồng của con tài năng nhỏ mà chức quan lại lớn thì thế nào cũng sẽ gặp họa. Chẳng có công lao gì mà gia đạo lại rất hưng vượng chính là tích lũy tai ương. Năm xưa quan Lệnh Doãn của nước Sở là Tử Văn làm việc cho quốc gia, gia đạo tuy nghèo mà đất nước giàu có. Quốc vương vô cùng kính trọng ông, dân chúng cũng rất yêu thương ông. Thế nên phúc lộc đều truyền lại cho con cháu, danh tiếng được lưu truyền hậu thế. Chồng của con hiện giờ không phải là người như thế, chỉ tham cầu phú quý, vinh quang hiển hách mà không suy xét đến hậu quả. Con nghe nói ở Nam Sơn có một con báo đen, khi trời mưa có sương mù trong bảy ngày nó đã nhịn ăn. Vì sao vậy? Là vì nó muốn dưỡng cho lông của nó trở nên óng mượt và có vằn nên nó náu mình để tránh xa họa hoạn. Còn con heo thì một ngày cái gì nó cũng ăn, mỗi ngày đều ăn, ăn đến nỗi thân thể béo mập chỉ đợi đồ tể đến giết mạng mà thôi. Ngày nay chồng của con trị lý ở ấp Đào này, trong nhà mỗi ngày đều trở nên giàu có mà vùng đất nơi anh ấy cai quản thì càng ngày càng nghèo. Nhà Vua xem thường anh ấy. Nhân dân bá tánh cũng không ủng hộ anh ấy, điềm báo tai họa đã hiện ra rõ ràng, nên con muốn đưa con của con rời khỏi nơi đây”. Mẹ chồng của nàng rất tức giận, đã đuổi nàng ra khỏi nhà. Một năm sau, Đáp Tử quả nhiên bị khép vào tội tham ô. Mẹ già do tuổi tác cao mà được miễn tội. Vợ của ông ta cùng đứa con quay về phụng dưỡng mẹ chồng cho đến ngày bà nhắm mắt.
Chúng ta từ câu chuyện này thấy được sự kính thuận chân thật của người làm vợ là như thế nào. Sự kính thuận thực sự nằm ở năm chữ “Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín”. Nên người làm vợ có thể thời thời bồi dưỡng tâm “kính”, tâm “thuận” trong Ngũ Luân, Ngũ Thường, mỗi ngày trưởng dưỡng. Như vậy cái gốc của tâm cung kính sẽ sâu, sau này sẽ cùng chồng mình nâng cao đức hạnh. Tâm cung kính này có thể khiến vợ chồng yêu thương lẫn nhau, kính trọng nhau như khách, mới được người đời thực sự kính ngưỡng. Không chỉ thành tựu bản thân mà còn thành tựu cho chồng, thành tựu một gia đình, thành tựu cho con cháu đời sau, đồng thời còn ảnh hưởng đến bà con thôn xóm, mọi người sẽ theo đó mà noi gương, thậm chí còn truyền đi khắp thiên hạ. Vì vậy, hãy từ đây mà trưởng dưỡng cái tâm kính thuận của phụ nữ.
Câu chuyện thứ ba tên là “Sở Tiếp Dư Thê”, câu chuyện kể về người vợ của Tiếp Dư, người nước Sở. Tiếp Dư sinh sống bằng nghề cày cấy. Sở Vương sai Sứ Giả đến cầm theo 300 lạng vàng, thắng hai cỗ xe ngựa đến nghênh tiếp ông, trông mong ông ra trị lý vùng Hoài Nam, bởi vì ông là người có đức lẫn tài. Tiếp Dư chỉ cười không đáp lời. Vì sao ông không trả lời? Bởi vì ông có ý muốn bàn bạc với vợ nên ông chỉ cười mà không trả lời. Sứ Giả thấy ông không nhận lời thì bỏ đi. Không lâu sau đó, vợ của ông từ trên đường về nhà thấy trước nhà có vết xe ngựa lún rất sâu, bởi vì hai cỗ xe ngựa đó kéo cả trăm lượng vàng rất nặng nên để lại vết lún sâu. Vợ ông đã tinh ý thấy được bèn hỏi ông cớ sự. Tiếp Dư nói: “Nhà vua không biết ta bất tài mà phái ta đi trị lý vùng Hoài Nam, phái Sứ Giả đem tiền và xe ngựa đến mời ta”. Sau đó vợ của ông nói: “Vậy chàng đã đồng ý chưa?”. Tiếp Dư đã thử lòng vợ mà nói: “Phú quý thì ai mà chẳng muốn. Nếu ta nhận lời ông ấy nàng có giận không?”. Vợ của ông đã nói: “Người chính nghĩa đối với những sự việc không hợp lễ thì sẽ không động ý niệm, sẽ không vì bần cùng mà thay đổi tiết tháo, cũng không vì địa vị thấp mà thay đổi hành vi. Thiếp cùng chàng tự mình làm ruộng, nấu cơm, may vá, được ăn no, mặc ấm, hành vi đều phù hợp chính nghĩa, có được niềm vui như thế này là đủ rồi. Nếu như chàng tiếp nhận cái lộc lớn của người ta, ngồi xe cao sang của họ, ăn sơn hào hải vị của nhà người thì chúng ta nên làm thế nào để báo đáp họ chứ?”. Tiếp Dư nói: “Nếu như vậy thì không phải là điều ta muốn làm rồi”. Vợ của ông nói: “Không nghe lệnh Vua là bất trung, nếu nghe lệnh Vua mà làm trái với ý nguyện của chính mình thì bất nghĩa, chi bằng chúng ta hãy rời khỏi nơi này”. Nói rồi, chồng cắp nồi niêu, bếp lò, vợ đội rổ kim chỉ may vá, thay tên đổi họ mà bôn tẩu về phương xa, chẳng ai biết là họ đã đi đâu.
Chúng ta từ câu chuyện này mà nhìn thấy, vào thời xưa, người vợ có sự ảnh hưởng sâu sắc đối với chồng, bất kể là việc chồng ra làm quan hay kết giao với bạn bè thì người làm vợ đều khuyên: “Hợp với lễ thì được, hợp với nghĩa thì làm”, họ đã thành tựu cho những nhân tài hiền đức vào thời xưa. Ngày nay chúng ta dùng nhãn quang của người thời nay mà học tập câu chuyện về những phụ nữ ưu tú của thời xưa thì rất có cảm xúc.
VŨ PHU BẤT TIẾT, KHIỂN HA TÒNG CHI; PHẪN NỘ BẤT CHỈ, SỞ THÁT TÒNG CHI. PHU VI PHU PHỤ GIẢ, NGHĨA DĨ HÒA THÂN, ÂN DĨ HẢO HỢP, SỞ THÁT KÝ HÀNH, HÀ NGHĨA CHI TỒN, KHIỂN HA KÝ TUYÊN, HÀ ÂN CHI HỮU? ÂN NGHĨA CÂU PHẾ, PHU PHỤ LY HÀNH – CHƯƠNG KÍNH THUẬN
(Tạm dịch: Tâm khinh mạn, xúc phạm chồng nếu như không tiết chế ắt dẫn đến việc nhiếc móc, trách cứ. Nếu nhiếc móc, trách cứ không thể khống chế được lòng phẫn nộ thì sẽ dùng đến roi, đến gậy. Đạo vợ chồng vốn dĩ dùng lễ nghĩa mà chung sống hòa thuận, dùng ân nghĩa mà hòa hợp thân ái. Nếu như dùng đến roi gậy mà đối đãi nhau thì còn chi là lễ nghĩa nữa! Lời nhiếc móc đã thốt ra thì còn gì là ân ái nữa! Nếu không còn lễ nghĩa và ân tình thì vợ chồng ắt sẽ phân ly)
Đoạn này nói về việc không khắc chế tâm khinh mạn đối với chồng, nên khi nói chuyện với chồng dễ dàng mắng nhiếc, chì chiết, không có sự cung kính khiêm hạ ở trong. Nếu tiếp tục ở mức độ cao hơn thì trở thành sự phẫn nộ, sân si, nóng giận. Nếu tiếp tục nữa thì sao? Thì sẽ dùng đến gậy gộc, đòn roi. Khi người chồng khởi cơn nóng giận thì sẽ cầm gậy mà đánh vợ bởi vì vợ ăn nói quá đáng, không thể nhịn nổi nên mới ra tay đánh đập, thời nay vẫn còn có việc như vậy. Lần trước tôi có nghe một nhân viên trong công ty kể rằng bạn của cô ấy muốn ly hôn. Cô ấy đã khuyên bạn mình đừng ly hôn. Nguyên nhân là do người chồng đã đánh cô ấy. Vì sao bị chồng đánh? Vì cô ấy thường xuyên khinh thường chồng, lúc nói chuyện ăn nói rất quá đáng. Chồng của cô ấy tức không chịu được, lúc đầu còn đánh nhẹ, sau đó mới chuyển thành đánh mạnh, thỉnh thoảng ra tay trở thành ra tay thường xuyên như cơm bữa. Cô ấy lại không có sức mạnh như đàn ông nên đánh không lại. Cô ấy chịu không nổi nên mới đề xuất ly hôn. Sự việc chính là như vậy. Sau đó, tôi đã mở cuốn “Nữ Giới” này ra cho đồng nghiệp nữ đó xem. Tôi nói trường hợp của cô ấy hoàn toàn giống với lời trong sách nói, từ sự nhiếc móc biến thành phẫn nộ rồi trở thành đánh đập. Thế nên người làm vợ cần phải “nghĩa dĩ hòa thân”, nghĩa là hai vợ chồng chung sống với nhau cần có đạo nghĩa và tình nghĩa. Chữ “thân” trong “hòa thân” nghĩa là khi trong tâm không có quá nhiều phân biệt thì sẽ dễ làm được hòa. Phân biệt càng nhiều thì chướng ngại càng nhiều, không thể nào hòa hợp chung sống được. Để làm được “hòa thân” thì trước hết phải làm được “nghĩa”, nếu trước tiên mà dựa vào “tình” thì sẽ khó làm được. Khi mới vừa kết hôn thì tâm tình vẫn còn rất tốt, có thể hòa được, khi tâm tình không tốt hoặc sau một thời gian lâu thì sẽ không thể làm được “hòa thân”. Thế nên “nghĩa” là trí huệ, dùng “nghĩa” để kiểm soát cảm tình sẽ không bị cảm tình khống chế. Đó chính là đại nghĩa giữa vợ chồng với nhau, biểu hiện ra chính là vợ chồng vẫn giữ được hòa khí trong hết thảy hoàn cảnh xảy ra trong gia đình. Ví dụ như khi chồng không đem tiền về nhà thì cũng không tính toán. Chúng ta có thể gánh vác được. Chúng ta tự mình nuôi chính mình. Hoặc khi chồng không mua quà cho chúng ta, phụ nữ thường mong muốn vào dịp kỷ niệm ngày cưới sẽ nhận được một món quà hay sinh nhật sẽ có quà, nhưng lại không nhận được thì tâm tình sẽ ũ rũ sa sút, như vậy thì sẽ không dễ làm được “hòa thân”. Bản thân hãy nghĩ thoáng một chút, hãy tự mua quà cho chính mình, nếu không nhận được cũng không sao, hãy tự mời chính mình đi ăn cơm, mua quà cho chính mình. Tôi còn nhớ một việc xảy ra cách đây hơn mười năm. Có một lần chồng của tôi rất kinh ngạc mà hỏi rằng: “Sợi dây chuyền bằng ngọc trai đó của em là ai đã mua vậy?” Tôi nói: “Đó là quà sinh nhật em tự mua lấy”. Thế nên, bản thân nhất định phải hiểu, không nên chấp trước, cần phải buông xuống, hãy mang lại niềm vui cho chính mình thì mới dễ dàng mà hòa được. Thế nhưng, hành vi trước đây của tôi không hề có “lễ” ở trong, đơn thuần chỉ là khiến cho bản thân không phiền não. Sau khi học văn hóa truyền thống thì đã không còn tự mình tìm phiền não thông qua dục vọng vật chất nữa, có thể nâng cao bản thân hơn, đã dễ dàng đứng trên chữ “nghĩa” mà làm được chữ “hòa”.

“Ân dĩ hảo hòa”, chúng ta xem chữ “ân” (恩), phía trên chữ “tâm” (心) có chữ “nhân” (因) trong từ “nguyên nhân”. Nói một cách khác, bạn hiểu được nguyên nhân, trong tâm đã rõ nguyên nhân thì sẽ dễ làm được “hòa”, chứ không phải “hòa” theo kiểu qua loa hồ đồ, “hòa” một cách qua loa thì không thể nào lâu dài được. Thế nên đối với chồng, bạn làm thế nào để cảm kích ân đức của anh ấy? Đó là khi anh ấy đối với bạn dù tốt hay xấu thì bạn cũng đều cảm tạ cái duyên phận đời này của mình. Chúng ta gọi là nợ tình cảm thì đời này phải trả xong. Nếu bạn nói nhìn anh ấy không vừa mắt đòi ly hôn, nhưng khi còn có món nợ tình cảm thì sẽ không qua nổi cửa ải tình cảm. Thế nên, bạn cần dùng tâm bình hòa, khi nghịch cảnh đến thì chúng ta biết tùy thuận nó, tiếp nhận nó, thản nhiên mà nhận lấy, không oán than. Oán trách cũng không có ích lợi gì. Phụ nữ thường thích than trách. Người oán trách thì chính mình sẽ rất đau khổ. Đó là đem sai lầm của người khác mà trừng phạt bản thân, không có ích lợi gì cả. Thế nên khi trong lòng khởi chút tâm oán trách thì ngay lập tức phải biết chuyển. Chúng ta có thể đi ra ngoài một chút cho khuây khỏa, như thế tốt hơn là tìm người để trút sự oán trách sang họ. Nâng cao hơn một chút, chúng ta có thể đọc sách, nâng cao hơn chút nữa thì có thể chọn cách tĩnh tọa để tĩnh tâm, có thể tập Thiền, Yo-ga. Nói tóm lại, chúng ta cần biết chuyển đổi, sau đó khởi tâm cảm ân thì sẽ có thể làm được hòa. Nếu như để xảy ra việc phải đụng đến đòn, roi, gậy gộc thì “nghĩa” sẽ không còn nữa. Nếu như người chồng thường xuyên quát mắng vợ, do người vợ có tâm khinh mạn chồng, từ quát mắng chuyển sang đánh đấm thì cả “hòa” lẫn “ân” đều không còn nữa. Ân nghĩa đã mất thì vợ chồng sẽ đường ai nấy đi, cho dù vẫn ở chung một nhà nhưng đã không còn chung lòng nữa rồi.
Vì vậy, vợ chồng chung sống với nhau là một môn học vấn, cũng là một nghệ thuật. Đây là khóa học quan trọng nhất trong đời, thậm chí có thể là khóa học duy nhất. Làm thế nào tốt nghiệp khóa học này vậy? Trong quá trình chúng ta học tập, trên thực tế vợ chồng chung sống chỉ là sự rèn luyện mà thôi, nếu là sự rèn luyện thì hãy cùng nhau rèn luyện hết một đời đi. Anh ấy sẽ giúp cho chúng ta khắc phục tất cả những tật xấu, khuyết điểm và dục vọng trên thân của chính mình. Sau khi bạn đã khắc phục được từng thứ một rồi, ngày mà bạn đạt được thành tựu bạn sẽ vô cùng cảm ân anh ấy. Đại đa số các ông chồng đều đưa ra sự rèn luyện rất nghiêm ngặt, cho bạn nghịch cảnh để mà rèn luyện. Khi đối diện với sự rèn luyện này, chúng ta nhất định phải hướng vào trong mà cầu, đừng cầu bên ngoài. “Đạo” ở bên trong chẳng phải ngoài. Điều này nhất định cần phải hiểu, khi phản tỉnh lại bản thân thì hết thảy vấn đề đều có thể được giải quyết.
Khi chúng ta học tập chương “Kính Thuận” này, chúng ta cần không ngừng thể hội và nâng cao. Toàn bộ chương “Kính Thuận” chính là bản chú giải chi tiết rõ ràng cho chương “Ti Nhược”. Nếu như phụ nữ thường xuyên có tâm ngỗ nghịch đối với chồng, điều này nói lên điều gì? Họ đã không đặt cái tâm vào trong việc nhà, cũng không thật sự làm tròn phận sự. Tôi từng nhìn thấy rất nhiều người vợ giàu có nhưng mâu thuẫn với chồng, kỳ thực là do an nhàn mà ra, an dật thái quá. Họ có tiền nên không lo cái ăn cái mặc. Trong nhà có người làm quét dọn, nên tứ chi không còn siêng năng nữa, ở nhà bắt đầu trở nên như thế nào? Bắt đầu oán trách chồng mình chỗ này không đúng, chỗ kia không đúng.
Trong “Liệt Nữ Truyện” có một câu chuyện tên là “Kính Khương Giáo Tử”. Có một ngày, Công Văn Bá sau khi triều kiến vua nước Lỗ rồi trở về nhà nhìn thấy mẹ mình đang dệt vải thì nói với mẹ rằng: “Gia đình nhà ta thế này mà mẹ còn phải dệt vải nữa hay sao? Mẹ cho rằng con không thể hầu hạ mẹ được sao?”. Bà Kính Khương sau khi nghe con trai trách như thế đã dạy rằng: “Con người lao động thì có suy tư. Suy tư thì thiện tâm sinh. Còn như phóng dật thì ắt sẽ dâm. Đã dâm thì sẽ quên điều thiện. Quên điều thiện thì ác tâm sẽ sinh”. Bà cho rằng trên từ Thiên Tử, chư Hầu, Tam Công, cửu Khanh, dưới cho đến lê dân bá tánh đều cần phải lao động, hoặc là lao tâm, hoặc là lao lực thì nền chính trị mới trong sáng, nhân dân an hòa, quốc thái dân an. Đây chính là nền tảng và tiền đề của việc trị quốc, an bang. Ở chỗ này bà Kính Khương đã nêu ra một chân lý rất mộc mạc đó là: “Cần cù chăm chỉ thì đất nước mới hưng, phóng dật lười nhác thì nước sẽ bại”. Thế nên, con người không được quá an dật, đặc biệt là người nữ. Cho dù trong nhà có điều kiện thì người phụ nữ cũng cần phải bắt đầu từ bản thân mình mà dưỡng thành nề nếp siêng năng, chăm chỉ trong gia đình. Nếu có thể không cần người làm thì cố gắng đừng có, tự mình có thể làm việc nhà thì tốt nhất. Hãy tự mình đi làm, vừa làm vừa học tập lời dạy của Thánh Hiền thì sẽ khắc phục được phiền não, tập khí. Đối với người thông thường, khi vẫn còn có sự lo toan về đời sống kinh tế thì đều nỗ lực làm việc. Rất nhiều cặp vợ chồng trong quá trình nỗ lực vất vả đều có thể chung sống hạnh phúc với nhau, nhưng sau khi có tiền thì sanh ra cãi vã. Vì sao lại xuất hiện tình trạng này? Bởi vì lúc đó bạn có quá nhiều thời gian nhàn rỗi, có dư sức lực để nghĩ đến những việc không nên nghĩ nên dễ sinh ra sự rạn nứt lớn. Thế nên, nếu như điều kiện gia đình khá giả thì người phụ nữ nên để tâm vào những sự việc công ích (lợi ích cộng đồng), để tâm vào việc giáo dục con cái. Nếu như con cái đã nên người rồi thì hãy làm thêm nhiều việc thiện hơn để lợi ích cộng đồng. Nếu như điều kiện gia đình chỉ bình thường hoặc không tốt thì hãy cứ an với bổn phận làm người vợ tốt. Làm xong công việc rồi về nhà chăm sóc việc nhà. Điều này cũng rất tốt rồi.
Chương Kính Thuận chúng ta hôm nay học đến đây, xin cảm ơn các thầy cô giáo cùng mọi người.