Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P2)
Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P2): Thế nào là sự kính thuận thật sự? Chúng ta hãy từ ý nghĩa đối lập mà học tập thì sẽ hiểu rõ hơn. Trái nghĩa với “kính” là ngạo mạn, cống cao ngã mạn, tự cho mình là đúng. Trái nghĩa của “thuận” là cang cường, ngang ngược, hung tợn.
NHIÊN TẮC TU THÂN MẶC NHƯ KÍNH, TỊ CƯỜNG MẶC NHƯỢC THUẬN, CỐ VIẾT: KÍNH THUẬN CHI ĐẠO, VI PHỤ CHI ĐẠI LỄ DÃ
(Tạm dịch: Thế nên nói rằng: “Dùng Lễ để hộ vệ chính mình, kính và thuận là hành vi chuẩn tắc quan trọng nhất của phụ nữ, cũng là sự bảo vệ lớn nhất của phụ nữ”)
Ý của đoạn này nói rằng đạo tu thân của phụ nữ không gì hơn chữ “kính”, để tránh sự cang cường không gì bằng chữ “thuận”. Thế nên, cung kính và nhu thuận chính là đại lễ của người nữ. Trong phần Tiên Chú của Vương Tương cũng nói rằng: “Kính là cái gốc để tu thân, thuận là cái gốc để thờ Trời, đó là cái lễ lớn vậy”.
Thế nào là sự kính thuận thật sự? Chúng ta hãy từ ý nghĩa đối lập mà học tập thì sẽ hiểu rõ hơn. Trái nghĩa với “kính” là ngạo mạn, cống cao ngã mạn, tự cho mình là đúng. Trái nghĩa của “thuận” là cang cường, ngang ngược, hung tợn. Nói một cách rõ hơn, bất kính bất thuận chính là tự tư tự lợi, tất cả đều xem mình là trung tâm, không nghĩ đến người khác, không xem người người khác thậm chí là cha mẹ ra gì. Như vậy sao có thể được chứ? Hiện nay, nếu phụ nữ bất kính, bất thuận thì hai điều này sẽ chướng ngại hạnh phúc của cô ấy. Làm thế nào để trừ bỏ tập khí xấu này, khôi phục tự tánh vốn sẵn tốt đẹp? Chẳng phải “nhân chi sơ tánh bổn thiện” đó sao? Phải dựa vào giáo dục. Giáo dục như thế nào? Chúng ta thông qua học tập và quan sát những trường hợp chung quanh chúng ta mà trước tiên cần phản tỉnh, sửa lỗi. Thế nhưng, người tâm khí nóng vội, bộp chộp sẽ không nhìn thấy được vấn đề của chính mình. Cho nên, con người cần thường xuyên dành thời gian để tĩnh tâm, ví dụ như vào buổi tối hoặc lúc sáng sớm, tĩnh tọa trong vòng 10 phút, suy nghĩ khi ta làm việc đã dùng tâm thái gì đối với cha mẹ, đối với người nhà, đối với con cái, đối với bè bạn, có chỗ nào không phù hợp với lời dạy của “Đệ Tử Quy”. Dùng 113 điều trong “Đệ Tử Quy” mà đối chiếu bản thân, phát hiện vấn đề của mình, tìm ra nguyên nhân sai lầm của chính mình, chỉ có không ngừng phản tỉnh chính mình thì mới có thể phát hiện ra vấn đề, sau cùng là nâng cao chính mình. Cho nên, tâm nhất định phải tĩnh. Tâm tĩnh thì mới phát hiện ra vấn đề của bản thân.

“Kính” không chỉ đơn thuần đối với người, mà còn đối với sự, với vật. Các chương trong “Đệ Tử Quy” đều dạy làm thế nào để kính. Chương đầu tiên “Nhập Tắc Hiếu” dạy chúng ta kính cha mẹ. Chương “Cẩn” dạy chúng ta kính vật, dùng đồ vật cần cung kính. Chương “tín” dạy chúng ta kính sự, làm việc phải nghiêm túc giữ thành tín. “Đệ Tử Quy” là giáo dục cắm rễ tốt nhất, muốn học Nữ Đức thì không thể tách rời “Đệ Tử Quy”. Thế nên, kính người nên bắt đầu làm từ đâu? Bắt đầu từ việc hiếu kính đối với cha mẹ. Đối với cha mẹ không có chút phiền não, oán trách, không có ý niệm nóng giận, ngay cả cái tâm cảm thấy cha mẹ không đúng cũng không được có mảy may, hãy từ đây mà tu dưỡng, rèn luyện. Đây không phải là việc đơn giản, nhất là trong xã hội hiện nay. Nếu như chúng ta không làm được điều này đối với cha mẹ thì đối với những người khác ở chung quanh đều là giả. Bởi vì chúng ta cùng với cha mẹ là một thể, máu huyết trong thân, xương thịt trên người đều do cha mẹ ban cho. Trải qua năm tháng, chúng ta ngày một khôn lớn, càng đối lập và xa rời cái tâm xem cha mẹ là một thể. Nhìn thấy cha mẹ già cả, lọm khọm cảm thấy không hài lòng chính là trái ngược với tự tánh của chúng ta. Khi gặp việc không vừa lòng, trùng trùng chướng ngại xuất hiện thì chúng ta lại mờ mịt không biết tại sao. Tôi tin tưởng rằng người chân thật hiếu thuận cha mẹ nhất định sẽ được cát tường như ý.
Bạn xem lúc chúng ta còn là trẻ nhỏ, trước khi lên ba tuổi, thiên tánh vô cùng thuần thiện, hoàn toàn là sự hiển lộ của tự tánh thanh tịnh, tâm rất mềm mỏng, tóc cũng mềm, bàn tay cũng rất mềm, thân thể đều vô cùng mềm mại. Thế nên, người có tâm mềm mỏng thì tay chân đều mềm mại. Nếu bạn không tin thì hãy quan sát thật kỹ mà xem, những phụ nữ nóng tính, tâm cang cường thì chắc chắn bàn tay của họ cũng rất cứng, gân cốt của họ cũng cứng đờ thiếu linh hoạt. Tiếp theo bạn hãy xem những cụ 70-80 tuổi, khi họ khom lưng xuống đều rất khó khăn. Nếu như người 80 tuổi mà cơ thể vẫn còn mềm mại, vậy thì người lớn tuổi đó là người như thế nào? Đó chính là cụ Hứa Triết ở Singapore 113 tuổi có một tấm lòng nhân ái, nhu hòa nên đến tuổi này mà bà vẫn còn tập được Yoga. Tôi đã nhìn thấy tấm hình của bà, thoáng một cái là chân của bà có thể giơ cao lên đầu, động tác tập Yoga của bà vô cùng linh hoạt. Tâm của bà nhu hòa, mềm mại nên bà có khí chất nhu hòa. Có khí chất nhu hòa thì thân thể nhất định không cứng nhắc. Thật sự tâm và tướng của chúng ta là một thể, nên “kính” chính là từ sự cung kính, khiêm hạ của chúng ta đối với cha mẹ mà bắt đầu làm. Nếu như đối với cha mẹ bất hiếu, bất kính thì không thể hiếu kính với người khác được. Đối với chồng cung kính chỉ là giả mà thôi, đều xuất phát từ lợi ích, vì tư tình ái dục của bản thân.
Đối sự cung kính chính là đối với mỗi một sự việc đều nghiêm túc hoàn thành tốt, đã không làm thì thôi, nếu làm thì từ đầu đến cuối phải tận tâm tận lực mà làm cho tốt, bất luận là việc nhà hay việc công thì cũng đều giữ tâm cung kính. Hiện nay, phụ nữ trong xã hội đều có một nghề nghiệp. Các bạn có ý thức rằng khi làm việc cũng cần phải cung kính hay không. Sự cung kính này chính là tinh thần trách nhiệm. Chúng ta hiện nay quan sát thấy rất ít người tận tâm với công việc, bất luận là việc lãnh đạo giao hay chồng giao, hay là do cha mẹ giao thì thường làm đối phó, qua quýt cho xong. Đối với sự không có tâm cung kính, cũng không có tinh thần trách nhiệm, nếu cứ tiếp tục như thế thì sao có thể tu thân được? Tu thân là tu trong lúc làm việc. Nếu như không tu thân từ trong công việc thì chỉ là sáo rỗng mà thôi, cả đời sẽ chẳng có được thành tựu. Ở nhà thì sống hồ đồ cho qua ngày, khi đi làm thì thờ ơ qua loa, chẳng thành tựu gì được cả.
Sau cùng là cung kính đối với vật, chính là phần “Cẩn” trong “Đệ Tử Quy” dạy rằng: “Nón quần áo, để cố định”, đối với y phục cần có sự cung kính, “vớ và giầy, mang chỉnh tề”, mang vớ mang giầy cũng có sự cung kính, “bàn học sạch, bút nghiên ngay”, đặt sách, bút, thỏi mực cho ngay ngắn. Chúng ta là phụ nữ, khi làm việc nhà nếu không có tâm cung kính đối với đồ vật trong nhà thì sẽ thế nào? Ví dụ khi bạn rửa bát với tâm tức giận thì dễ làm vỡ bát, đồ đạc sẽ không thể dùng được lâu. Trong nhà nên cố gắng đừng thuê người làm, những việc nhà mình có thể làm thì hãy tận hết khả năng mà làm. Một khi biết được cách thức làm công việc nhà thì sẽ phát hiện rằng hóa ra việc nhà không vất vả và phức tạp đến thế. Tâm thay đổi thì cảnh giới bên ngoài cũng thay đổi. Hiện nay, khó có thể thuê được người làm có tố chất tốt, nếu như người làm không có trách nhiệm, sử dụng đồ vật một cách không trân quý thì chi phí trong gia đình có thể còn tăng lên. Về lâu về dài thì phước báo của chúng ta sẽ bị tổn giảm nghiêm trọng. Cho nên con người đừng nên hưởng quá nhiều phước. Cho dù người giúp việc làm tốt công việc nhà nhưng nếu như đức hạnh của cô ấy không tốt thì lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng thành của con cái trong nhà. Điều này chúng ta cần đặc biệt chú ý. Trong không gian nhỏ của gia đình, từng lời nói, hành vi của cô giúp việc đều có ảnh hưởng then chốt lên con cái của bạn.
Sau khi cô giúp việc của gia đình tôi nghỉ việc, tôi tự mình chăm sóc cho đứa con trai út hai tuổi rưỡi thì phát hiện ra đứa con này thỉnh thoảng nói ra những lời thô tục. Sau đó, đứa con trai lớn nói với tôi là cô giúp việc cũng nói như vậy. Điều này khiến tôi rất đau lòng, cũng rất hối hận rằng mình đã lơ là sự việc này, may mà đã phát hiện kịp thời. Lúc đó, cô hiệu trưởng trường mẫu giáo đã nói với tôi một câu rất thâm thúy rằng: “Nếu như chị có một xấp vải tốt, muốn may thành một bộ đồ tốt, nhưng bạn lại đem xấp vải này giao cho một người chẳng biết cắt may để may thì khi họ may xong sẽ làm cho chị thất vọng, nhưng chị cũng không thể nào khôi phục trở về hiện trạng ban đầu của xấp vải được”. Giáo dục con cái cũng như vậy, giáo dục phải cẩn thận từ lúc đầu, từ 0 đến 3 tuổi là thời điểm then chốt trong giáo dục con cái. Thời gian này tốt nhất là để cho người mẹ dạy dỗ. Mẹ chính là người thầy tốt nhất của trẻ. Nếu như bạn hoàn toàn giao cho bảo mẫu, đến khi con lớn lên bạn phát hiện ra con có rất nhiều vấn đề, bạn muốn con quay trở lại thời điểm hai tuổi để bạn đích thân dạy dỗ thì không được nữa rồi.

Cung kính đối với vật, chúng tôi muốn nhấn mạnh một chút về việc đối với chữ và giấy viết cũng cần có tâm cung kính. “Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn” cũng thường nhắc đến việc kính tiếc giấy có chữ viết. Bởi vì Thương Hiệt phát minh ra chữ viết thì nhân loại mới khai mở được trí huệ, nếu như không cung kính đối với chữ viết thì thật sự có lỗi với Tổ tiên. Chữ có hình còn phải cung kính, huống chi là chữ vô hình. Đối với tám chữ nói về tám đức hạnh “Hiếu – Đễ – Trung – Tín – Lễ – Nghĩa – Liêm – Sỉ” chúng ta cần phải cung kính. Còn chữ vô hình chính là ý nghĩa về tám đức hạnh này, chúng ta càng cần phải cung kính nó hơn. Đối với giấy viết cũng phải cung kính, từ đây mà suy ra thì mỗi một giọt nước, quần áo, hạt cơm, nguồn điện trong gia đình, thậm chí đối với rác chúng ta cũng cần phải cung kính. Ví dụ như khi nhà có cơm thừa, hoặc là ngũ cốc thừa, chúng ta có thể giã nát ra cho chim ăn. Mùa đông chim khó tìm được thức ăn nên mỗi sáng mùa đông cha của tôi thường ra vườn cho chim ăn, nếu không có thức ăn dư thì dùng gạo cho chúng ăn. Chúng cũng đến đúng giờ, rất có trật tự. Chim khách đến trước ăn thì chim sẻ ở trên cây đợi. Chim khách bay đi rồi thì chim sẻ mới đến ăn, rất là tường hòa. Thế nên, con người cần có tâm yêu thương. Trong “Đệ Tử Quy” đã nói: “Phàm là người, đều yêu thương, che cùng trời, ở cùng đất”, người và người cần chung sống hài hòa, người và đại tự nhiên cùng vạn vật trong vũ trụ cũng phải chung sống hài hòa thì địa cầu mới trở nên ngày một tốt đẹp hơn.
Cha mẹ tôi vào mỗi buổi chiều, sau khi uống trà xong đều đi leo núi, có khi mẹ của tôi còn ở trên núi đọc “Đệ Tử Quy”. Trong lúc leo núi, họ còn mang theo túi đựng rác để nhặt rác ở trên núi. Cha mẹ đã làm công tác tình nguyện đó gần một năm nay. Bạn xem cha mẹ đã tích lũy cho chúng ta bao nhiêu là phước báo, có câu: “Nhà tích điều thiện ắt có thừa niềm vui”. Bản thân sao không cảm ân cha mẹ được chứ! Phận làm con cần phải biết làm thế nào hiếu kính cha mẹ, quan trọng nhất là trưởng dưỡng trí huệ của cha mẹ, dưỡng chí hướng của cha mẹ, giúp họ có chí nguyện cao xa, mở rộng tâm nhân ái, đừng bị hạn cuộc vào những việc nhỏ nhặt trong gia đình. Người càng lớn tuổi càng nên có cái nhìn thoáng hơn, xa hơn. Việc gì cũng nên buông xuống, càng lớn tuổi càng nên nhân từ, khoan hòa, đừng cậy vào tuổi tác cao mà lên mặt.
Con người làm thế nào để có được phước báo? Phước điền tâm canh (phước do tâm tạo), con người nên biết canh tác mảnh đất tâm của mình, đem nó chuyển thành kính điền, bi điền và ân điền. Ba mảnh đất tâm này là gì?
Kính điền chính là khiêm hạ lễ kính, tuyệt đối không cho mình là đúng, không cống cao ngã mạn. Cung kính có thể chiến thắng trăm tà, hết thảy điều tà không thể xâm phạm bạn được.
Bi điền chính là con người cần có tâm từ bi, tâm từ ái. Hai chữ từ bi này có nghĩa là gì? Từ là ban tặng niềm vui cho người. Bi là cứu khổ cho người. Vậy nó khác “ái” ở chỗ nào? “Ái” mà chúng ta thường hay nói đến là dục vọng tình cảm chứ không có trí tuệ. Còn “từ bi” là chân thành dùng trí huệ để giúp người lìa khổ được vui. Cho nên, “từ bi” khác với “ái”, nó siêu vượt hơn “ái”, cao hơn “ái”.
Ân điền chính là làm người phải biết tri ân báo ân. Tri ân báo ân bắt đầu làm từ hiếu thân, tôn sư.
Con người một đời này chỉ cần hiếu kính cha mẹ, tôn trọng sư trưởng, người như vậy sẽ có phước. Vì vậy, nhìn một người có phước hay không thì phải xem tâm của người ấy có kính điền, bi điền và ân điền hay không. Nếu như ba điều này có trong tâm thì bạn là người có phước báo, bạn không cần lo, trong xã hội mọi việc đều sẽ thuận tâm vừa ý.
Khi tôi xem “Thích Ca Mâu Ni Phật Truyện” có một đoạn nhỏ khiến cho tôi xúc động. Một lần nọ, Đức Phật đang đi bộ bên bờ ruộng, có một người nông dân nhìn thấy Ngài tỏ vẻ xem thường, nói rằng: “Ngài cả ngày vô sự, chẳng làm việc gì cả, chỉ mở miệng nói mà thôi. Người như Ngài không đáng để chúng tôi học tập. Ngài xem chúng tôi mỗi ngày đều lao động vất vả, còn phải trừ sâu, diệt cỏ, đến mùa thu thì phải đi thu hoạch, vất vả biết bao, đổ biết bao nhiêu mồ hôi, còn Ngài thì thong dong tự tại như thế”. Đức Phật đã nói với ông ấy một cách từ bi rằng: “Ruộng mà ông đang trồng là ruộng trên mặt đất, còn ruộng mà ta trồng là ruộng tâm của con người. Cỏ ông nhổ là cỏ trên mặt đất, còn cái ta nhổ bỏ là cỏ trong tâm của con người. Ông trồng ra ngũ cốc giúp người no bụng, chỉ là giúp họ tạm thời có được ấm no, giải quyết được nỗi cơ hàn nhất thời, còn sự dạy dỗ của ta trưởng dưỡng trí huệ của họ, khiến họ biết làm thế nào mà làm người, hiểu rõ sự khác biệt người và cầm thú khác nhau ở chỗ nào. Sao ta lại là người vô dụng được? Nếu như con người chỉ biết có ăn cơm mà không biết làm người như thế nào, như vậy chẳng phải càng đáng sợ hơn sao?”. Người nông dân nghe xong xấu hổ vạn phần, lập tức quỳ xuống hành lễ với Đức Phật, sám hối sai lầm của mình. Từ xưa đến nay, “thầy là vị truyền đạo, cho ta sự nghiệp và giải trừ nghi hoặc cho ta”, xưa nay người đời đều tôn kính thầy giáo, bởi vì thầy có thể khai mở mảnh đất tâm trí huệ của con người. Vì vậy, đối với thầy cần phải tôn trọng, yêu thương như đối với cha mẹ của chính mình, thậm chí còn càng phải cảm ân của thầy hơn nữa, vì cha mẹ nuôi dưỡng thân mạng của mình, còn thầy nuôi dưỡng huệ mạng của mình.
Câu “tị cường mạc nhược thuận” ý nói rằng nếu muốn tránh những người hung hãn, hoặc sự vật hung tợn thì không gì hơn chữ “thuận” này. “Thuận” là như thế nào? Chữ “thuận” này rất khó giảng, có người ngoài mặt thì nhu thuận nhưng trong lòng bất thuận, có ý xem thường. Hoặc là bên ngoài không “thuận” nhưng trong tâm lại “thuận”. “Thuận” thực sự chính là bốn chữ “tùy duyên bất biến”, gặp thuận cảnh tâm không sanh tham luyến, gặp nghịch cảnh tâm không sanh phiền não oán hận. Bất luận là thuận cảnh, nghịch cảnh tâm đều có định lực, như như bất động, đối diện với hết thảy cảnh giới đều an nhiên xử trí. Chỉ cần có định lực thì sẽ sanh trí huệ, bạn sẽ biết cách làm thế nào xử lý sự việc bên ngoài. Đây chính là “tùy duyên bất biến”. Ví dụ như chồng làm kinh doanh, chúng ta làm vợ không thể vì hôm nay chồng kiếm được tiền thì hết sức vui mừng, ngày mai ngộ nhỡ phá sản thì trong lòng oán trách, phiền não. Khi sự việc không tốt xảy đến đừng khởi tâm tức giận, tâm phiền não, oán hận. Người xưa có câu: “Nước chảy thì lấy đất ngăn, binh đến thì có tướng chặn”, “xe chạy đến trước núi ắt sẽ có lối vào”, đều có đạo lý rất sâu ở bên trong.
Chúng ta học tập Nữ Đức cần nhu thuận, nhưng không phải không có chủ ý, chủ kiến. Đó là ngu si không phải trí huệ. Đó là biến đổi theo hoàn cảnh, không phải là hành vi của bậc trí giả. Đối mặt với cảnh duyên bên ngoài, cho dù là hoàn cảnh nhân sự hay hoàn cảnh vật chất mà chúng ta lại tùy theo đó mà biến đổi tới lui, ví như khi người khác khen ngợi trong tâm lập tức liền vui mừng, người khác hủy báng thì mình lập tức không vui, gặp người nói chuyện thị phi mình cũng góp vào hai ba câu. Việc này chúng ta cần đề khởi tâm cảnh giác. Thế nên, thực sự muốn làm được “thuận” thì nhất định trong mỗi một cảnh giới tâm của bạn đều có thể định trên năm chữ “Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín”. Năm chữ này chỉ là một, đều là một thể. Nếu trong một lúc mà quy năm chữ này về một mối sẽ hơi khó, chúng ta có thể quy chúng về thành hai mối đó là Nhân và Trí. “Người nhân yêu thương người, người trí hiểu biết người”. Câu nói này nói với chúng ta làm người không những cần có tâm thương người, mà còn cần có trí tuệ biết người đó như thế nào, đối với người nào thì nên nói lời gì, làm việc gì cũng hiểu rõ nên làm thế nào, ví dụ như bạn giảng đạo lý cho người không hoàn toàn tiếp nhận thì chỉ có thể sanh ra đối lập. Nếu không phân biệt được thiện ác, tà chánh, thật giả thì đó là ngu si, ngu muội, hồ đồ. Nếu như trong tâm phân minh hiểu rõ ràng, dùng trí tuệ soi sáng hoàn cảnh nhân sự, vật chất ở bên ngoài thì đó mới là “nhân” thật sự.
Hiểu được những đạo lý này rồi thì sẽ dễ dàng xử lý những mối quan hệ trong và ngoài gia đình, tâm không bị hồ đồ. Giữa người và người với nhau không rời khỏi chữ “duyên”. Những người có duyên thì không nhất định vì thời gian quen biết nhau lâu, nhưng đối với đạo lý họ sẽ chịu nghe, chịu tin và chịu làm. Nếu có duyên thì chúng ta hãy tùy duyên mà hành thiện, nếu vô duyên thì chúng ta an tâm tự mình tu học. Bản thân tôi có thể hội rằng duyên phận của chúng ta với con cái và với nhân viên rất sâu. Nếu như họ không nghe lời chúng ta thì trước tiên mình cần phản tỉnh lại phải chăng mình vẫn chưa làm được, chánh kỷ mới có thể hóa nhân. Vì vậy, khi thấy nhân viên phạm sai lầm, thấy con cái có lỗi trước tiên hãy xét lại chính mình, sau đó cần nhẫn nại mà dạy dỗ họ. Họ sẽ dần dần thay đổi. Ví dụ, khi con cái thích lấy đồ của người khác, chúng ta làm cha mẹ trước tiên phản tỉnh lại xem mình có tâm ham chiếm tiện nghi của người khác hay không. Đặc biệt là người làm mẹ, phụ nữ thường ưa thích chiếm một số tiện nghi nho nhỏ. Đó không phải là tiết kiệm, tiết kiệm là dùng tâm thanh tịnh mà làm, trong tâm không tạp niệm thì mọi thứ trong cuộc sống đều đơn giản, thuần phác, chứ không phải ý niệm tự tư tự lợi trong tâm mỗi khắc chẳng dừng, khi nhìn thấy chỗ tiện nghi thì lập tức khởi niệm tham. Cho nên, việc người mẹ cần sám hối là điều quan trọng. Nếu như người mẹ nhất mực yêu cầu con cái, luôn cho rằng con mình chỗ này không tốt, chỗ kia không tốt. Sự đối lập này căn bản không thể giải quyết được vấn đề. Giáo dục con cái nhất định phải bắt đầu từ việc người làm mẹ tự giáo dục chính mình. Mẹ chính là người thầy tốt nhất của con.
Thế nên, chữ “thuận” này có đạo lý rất sâu, có thể cả đời này đều cần phải học hai chữ “kính” và “thuận”. Thực sự sống đến già thì học đến già, có thể học đến lúc 70 tuổi, rồi quay lại giảng hai chữ này thì sẽ có thể hội càng sâu sắc hơn nữa. Lần này tôi giảng và lần đầu tiên tôi giảng đều không giống nhau, tâm cảnh càng được nâng cao thì sự thể hội đối với hai chữ này càng sâu sắc hơn, càng lúc càng sanh tâm biết kính sợ. Hy vọng các cô thiếu nữ sớm hiểu được đạo lý này để có thể tránh bớt đi vào các con đường vòng và nghịch cảnh. Vì vậy, đạo lý “kính”, “thuận” là cái lễ lớn của phụ nữ, đại lễ chính là thứ căn bản nhất, kỳ thực chính là sự trở về tự tánh. Nếu như không chỉ phụ nữ mà cả nam giới có thể một mực thực hành đại đạo “kính”, “thuận” thì sẽ có được trí huệ chân thật, trong cuộc sống sẽ không có bất kỳ phiền não nào. Đây mới là cảnh giới mà chúng ta truy cầu. Giống như Khổng Phu Tử “bốn mươi tuổi không còn nghi hoặc”, còn tôi sắp bốn mươi tuổi rồi mà vẫn còn rất nhiều chỗ khó khăn, nghi hoặc. “Lục thập nhi nhĩ thuận”, sáu mươi tuổi nghe điều gì cũng đều cảm thấy thuận tai, không có lời nói nào trái nghịch. “Đến bảy mươi tuổi thì tùy tâm sở dục, không vượt quy củ” làm việc gì cũng tùy theo tâm của mình, làm mà không vượt trái quy củ, như vậy từ trong ra ngoài hoàn toàn đều là một thể. Chúng ta hiện nay còn xa mới đạt được cảnh giới này. Vậy làm sao đây? Một vị trưởng bối rất có trí huệ đã nói với tôi rằng hãy từ cái giả mà bắt đầu làm. Vừa làm vừa học thì càng lúc càng hiểu rõ đạo lý. Cái giả mà làm hoài làm mãi rồi cũng thành cái thật. Bản thân nghe rồi đã làm theo như thế, ví dụ phụ nữ cần mỉm cười ôn hòa, nhìn thấy người tuy chưa mở lời đã dùng khuôn mặt tươi cười để nghênh đón, khiến lòng người sanh hoan hỷ. Thế nên, sau khi tôi giảng Nữ Đức thì đã bắt mình khi giảng bài phải tươi cười, tươi cười với mọi người, vừa giảng thì tâm vừa thay đổi. Hiện giờ, đây là nụ cười xuất phát từ nội tâm.
Tôi còn nhớ một lần khi giảng bài xong thì ra phi trường. Có một vị nghe giảng đã đuổi theo tôi đến phi trường để chụp ảnh chung với tôi, nói rằng thích nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của tôi, nụ cười làm cô ấy không còn phiền não. Cô ấy mong rằng sau này nhìn thấy nụ cười của tôi trong tấm hình này thì sẽ nhớ nên làm phụ nữ như thế nào, cần phải nhu hòa khiêm tốn, cần tươi cười trong cuộc sống. Câu nói của cô ấy khiến tôi hiểu ra lời của Thầy dạy chân thật không hư dối, chỉ cần thực thà nghe lời, thật làm là tốt, trong lòng khởi lên tâm cảm ân vô ngần đối với Sư Trưởng.