4.4 C
London
Thứ Hai, Tháng Hai 10, 2025
Trang chủNữ ĐứcNữ Đức Vi Yếu - Chương Ba: Kính Thuận (P1)

Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P1)

Date:

Bài Viết Liên Quan

spot_imgspot_img

Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P1)

Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P1): Chương này cũng rất quan trọng. Kính thuận là lễ nghĩa quan trọng nhất trong việc học tập về đức hạnh của người vợ. Trong phần Tiên Chú của Vương Tương có viết: “Tiền chương đản ngôn phu phụ chi đại đoan, bất khả bất kính dĩ vi phu chi đạo. Thử chương phương phát minh kính thuận chi lễ, kính thuận, tức thủ chương ti hạ tập lao chi sự dã”.

CHƯƠNG BA: KÍNH THUẬN

Các vị thầy cô giáo tôn kính! Xin chào mọi người! Chúng ta tiếp tục học chương thứ ba của sách Nữ Giới là Kính Thuận.

Chương này cũng rất quan trọng. Kính thuận là lễ nghĩa quan trọng nhất trong việc học tập về đức hạnh của người vợ. Trong phần Tiên Chú của Vương Tương có viết: “Tiền chương đản ngôn phu phụ chi đại đoan, bất khả bất kính dĩ vi phu chi đạo. Thử chương phương phát minh kính thuận chi lễ, kính thuận, tức thủ chương ti hạ tập lao chi sự dã”. Ý câu này nói, chương trước đã nói về đạo chung sống với nhau giữa vợ chồng. Trong đạo vợ chồng đặc biệt nêu ra bổn phận mà người làm vợ cần nên tuân thủ chính là lễ tiết kính thuận. Sự kính thuận này được thể hiện trong hai sự việc mà chương Ti Nhược đã nhắc đến, một là khiêm hạ, hai là cần lao. Hai việc này cần phải dụng tâm cung kính, thuận tòng mà làm. “Kính” phải giữ cho được bền lâu, nếu chỉ cung kính nhất thời thì không phải là cung kính thật sự. Đối với chồng, người và sự việc xung quanh có thể giữ được tâm cung kính trong một khoảng thời gian, nhưng thời gian lâu hơn thì không còn giữ được nữa, hoặc là khi gặp sự khảo nghiệm thì mất đi sự cung kính. Vậy thì tâm cung kính đó không phải là cung kính chân thật. “Thuận” chính là khoan dụ. Thế nào là khoan dụ? Nghĩa là tâm khoan dung, quảng đại. Bản thân từ “dụ” mang ý nghĩa giàu có, sung túc, quảng đại. Kính thuận là nói về tâm ý, kính là quả, thuận là nhân. Chỉ khi trong tâm làm được “thuận” thì ở bề ngoài mới có thể biểu đạt được sự cung kính. Nội tâm lúc nào cũng rất khoan khoái rộng mở, trong tâm sung túc, thanh tĩnh vô nhiễm thì sẽ dễ dàng thể hiện sự cung kính ra bên ngoài. Nếu trong tâm hẹp hòi, hiểm trở mà muốn làm ra bộ dạng cung kính thì cũng không dễ dàng.

Nữ Đức Vi Yếu - Chương Ba: Kính Thuận (P1)
Nữ Đức Vi Yếu – Chương Ba: Kính Thuận (P1)

Phía sau chúng ta sẽ xem xét cụ thể chi tiết từng câu xem Ban Chiêu đã hướng dẫn cho chúng ta như thế nào.

ÂM DƯƠNG THÙ TÁNH, NAM NỮ DỊ HÀNH. DƯƠNG DĨ CƯƠNG VI ĐỨC. ÂM DĨ NHU VI DỤNG. NAM DĨ CƯỜNG VI QUÝ, NỮ DĨ NHƯỢC VI MỸ. CỐ BỈ NGẠN HỮU VÂN: SANH NAM NHƯ LANG, ƯU KHỦNG KỲ UÔNG, SANH NỮ NHƯ THỬ, ƯU KHỦNG KỲ HỔ

(Tạm dịch: Một âm một dương là đạo của trời đất, tính của âm và dương không đồng nhau. Người nam thuộc tính dương, người nữ thuộc tính âm. Hai tính âm-dương không đồng nhau, thế nên phẩm hạnh giữa nam và nữ có sự khác biệt. Dương lấy cương làm đức tính của nó. Âm lấy nhu là tướng dụng của mình. Người nam lấy cương cường làm quý, người nữ lấy nhu thuận làm mỹ đức. Thế nên, tục ngữ có câu: “Sinh con trai mạnh mẽ như sói, mà sợ nó nhút nhát nhu nhược. Sinh con gái gan nhỏ như chuột mà sợ nó hung dữ như hổ”)

“Âm dương thù tính, nam nữ dị hành” có nghĩa là thiên tính của nam và nữ vốn là không như nhau. Người nam thuộc tính dương, có khí chất cương cường. Người nữ thuộc tính âm, có bản tính nhu mì. Người nam cần lấy khí chất cương cường làm đức tính của mình. Người nữ cần dùng sự nhu thuận làm tướng dụng của mình. Cương cường là mỹ đức của người nam, nhu thuận là mỹ đức của người nữ, nên tục ngữ có câu: Sinh con trai hy vọng nó mạnh mẽ như sói mà sợ nó yếu ớt, hèn nhát. Sinh con gái thì mong nó giống như chuột, chứ không mong nó giống như hổ. Kỳ thực nghĩa thâm sâu bên trong không phải là nói về cái dáng vẻ bề ngoài, chúng ta hãy phân tích cho rõ một chút. Thế nào mới chân thật là “dương cương chi đức dụng”? Đức dụng của tính cương cường chính là nói người nam cần toát ra hạo nhiên chánh khí (khí khái chánh trực quảng đại) từ trên thân. Hạo nhiên chánh khí lấy trung lương làm thể. Chúng ta hãy xem chữ “trung” (忠), bao gồm chữ “trung” (中) ở trên chữ “tâm” (心), ý muốn nói tâm trước sau cần luôn luôn ở trong trung đạo, không nghiêng cũng chẳng lệch.

Tôi xin nêu một ví dụ đơn giản nhất, khi vợ chồng chung sống với nhau, người nam luôn giữ trạng thái trung đạo, không nghiêng về cảm tình, cũng không phải quá lý trí. Nếu như quá lý trí thì người nữ sẽ cảm thấy anh ấy chẳng có tình cảm, chẳng có ý vị tình người. Nếu như người nam lại thiên về cảm tình thì sẽ bị người nữ đánh giá thấp, cảm thấy anh ấy không mạnh mẽ, nhỏ mọn quá, giống đàn bà quá. Khi xử lý mối quan hệ giữa mẹ ruột và vợ, người nam cần có thái độ trung đạo. Việc gì cũng không được quá nghiêng về phía mẹ hoặc là quá nghiêng về phía vợ. Mà bất kỳ việc gì cũng phải giữ vững được cái “nghĩa”. “Nghĩa” chính là làm việc phù hợp, đúng mực, cân nhắc khi làm việc. Nếu như đó là việc nhỏ nhặt trong gia đình thì đừng quản, phải biết vỗ về vợ, lấy đại cục làm trọng. Ví dụ như khi mẹ ruột của mình có vấn đề về đạo nghĩa mà vợ mình đã đúng, thì lúc này nếu như hoàn toàn nghiêng về mẹ để tận hiếu đạo thì cái hiếu này là giả, sẽ làm nguy hại đến thế hệ sau. Nếu như con cái của bạn hoặc người ngoài nhìn thấy biểu hiện như vậy cho rằng đó là hiếu, rồi đi tuyên dương thì sẽ dẫn dắt xã hội đi sai đường. Lúc này, bạn cần phải khuyên can mẹ ruột của mình, đồng thời cũng mong vợ mình có thể xử sự một cách hòa hoãn. Đối đãi với bạn bè cũng cần giữ trung đạo, người nam tương đối nghĩa khí, nếu như bạn bè mượn tiền thông thường sẽ không chút do dự mà cho mượn. Tôi quen với một ông chủ công ty. Ông ấy đã nói với tôi một cách đau khổ: “Ôi chao! Tôi cho bạn mượn nhiều nhất là 10 triệu tệ. Cho đến bây giờ anh ấy vẫn chưa trả tiền cho tôi”. Sau đó, ông ấy rất lo lắng mà nói rằng: “Hiện nay tôi đang cần vốn gấp, hy vọng anh hãy trả tiền cho tôi”. Người bạn của ông ấy đã nói một câu rằng: “Ai bảo anh cho tôi mượn tiền làm chi! Dù sao chúng ta cũng là bạn bè, tôi thực sự không có khả năng trả. Anh hãy cho tôi luôn đi!”. Ông ấy rất khổ não vì đây không phải là một số tiền nhỏ. Thế nên, làm bất kỳ việc gì cũng không được nhất thời nông nổi, mà phải nghĩ xem trong tâm có trung đạo hay không. Có chữ “trung” thì mới có thể giữ được bản tánh tốt đẹp thiện lương. Chính là cái đức cương cường của nam giới.

Tính nhu thuận của phụ nữ chỉ cho khí chất nhu hòa. Khí chất nhu hòa này chính là xem “nhược” là đẹp. Trong lần giảng trước, tôi đã nói nhiều đến chữ “nhu”. Hôm nay tôi xin chia sẻ với mọi người về chữ “nhược”. Lúc ban đầu, tôi cũng không hiểu về chữ “nhược” này. Tôi đã tra nguồn gốc chữ “nhược” trong sách Thuyết Văn Giải Tự thì nhận thấy rằng mỗi một chữ Hán đều là một ký hiệu mang tính trí tuệ. Tổ tiên sáng tạo ra chữ này không phải là sự sáng tạo vô duyên, vô cớ mà bên trong nó có hàm nghĩa rất sâu. Chữ “nhược” này có nguồn gốc từ đâu? Vào thời xưa, ở giữa trục bánh xe có một bộ phận phụ trợ gọi là dây chằng. Bộ phận này được làm từ nhánh cây, tuy mảnh mai nhưng có độ dẻo dai. Sau khi làm xong lấy tay sờ vào sẽ cảm thấy khá mềm nhưng nó có thể chịu đựng được sức nặng của chiếc xe và trục bánh xe, giúp cho trục bánh xe chuyển động được. Người ta gọi vật này là “nhược”. Chúng ta từ nguồn gốc của chữ “nhược” này có thể nhìn thấy vì sao chữ “nhược” này dùng cho phụ nữ. Ý muốn nói bên trong “nhu”“cương”, chứ không phải bị va đập là sẽ gẫy. Đó không phải là “nhược” thật sự. Giống như nước sông vậy, nếu dùng đao để chém đứt thì dòng nước vẫn chảy qua đao rồi tiếp tục chảy mạnh lên phía trước, không bị chém đứt được. Nó có thể biến thành tròn, vuông. Khi rót vào ly thì nước có hình tròn, bỏ vào chậu gỗ thì nó có hình vuông, ở bầu thì tròn, ở ống thì dài nhưng bản tánh của nó không hề thay đổi. Đây chính là nghĩa gốc của chữ “nhược”.

“Nam dĩ cường vi quý”, chúng ta hãy cùng nhau học về chữ “cường”“quý”. Thế nào gọi là “cường”? Thế nào gọi là “quý”? “Cường” thật sự không phải là vẻ bề ngoài rất mạnh mẽ, rất có sức mạnh. Đó không phải là “cường”. Phía trước đã nói bên trong phải có đức, tức là nói trong tâm của người nam phải có nhân đức thì cái gọi là “cường” đó mới là “cường” thật sự. Thế nào gọi là “quý”? Phú quý thực sự là gì? Chúng ta thường nói: “Hậu giả phú, thanh giả quý”. “Hậu” chỉ cho tâm địa nhân hậu, người có tâm nhân hậu là người giàu có đầy đủ. “Thanh giả quý” nghĩa là người có tâm thanh tịnh thì cao quý. Đó chính là phú quý thực sự, chứ không phải là có rất nhiều tiền, có quyền lực địa vị cao mới là phú quý. Bởi vì tiền tài thì sẽ có một ngày tán tận, quyền thế rồi cũng có ngày bị khuynh đảo, đến lúc đó phú quý chẳng còn, bị tiêu mất, không thể giữ được vĩnh cửu, không phải là đồ thật, là đồ giả, là hư vọng. Đức hạnh phát xuất từ trong tâm, biểu hiện ra bên ngoài là chữ “phú” của tâm nhân hậu và chữ “quý” của tâm thanh tịnh thì mới là thứ trường cửu không bao giờ mất. Thế nên, cái “quý” của người nam trước tiên chính là tâm địa thanh tịnh, không bị ô trọc, được những người xung quanh tôn trọng và yêu kính. Người như vậy mới thực sự là cao quý.

“Nữ dĩ nhược vi mỹ”, từ “mỹ” này có hàm nghĩa rất sâu, hoàn toàn không phải là khái niệm về tướng mạo xinh đẹp mà người hiện nay lý giải. Một người phụ nữ có tâm địa nhân hậu, nhân từ, thiện lương và có trí tuệ thì dung mạo của cô ấy toát ra nét đẹp. Nét đẹp này cùng với nét đẹp về hình dáng bề ngoài là hai khái niệm khác nhau. Vẻ đẹp hình dáng bề ngoài giống như bông hoa cắm ở trong bình, khi nước trong bình không còn nữa thì hoa sẽ trở nên khô héo. Nước trong bình chỉ có hạn, tượng trưng cho tuổi tác của chúng ta, qua tuổi xuân sanh rồi, đến 50-60 tuổi sẽ không thể đẹp được nữa. Cái đẹp chân thật giống như hoa cỏ mọc sâu từ đất, rễ sâu lá rậm, quanh năm tươi tốt. Vẻ đẹp chân thật bao gồm hàm nghĩa của bốn từ “Chân – Thiện – Mỹ – Huệ”. Bên trong cái đẹp có sự chân thành, lương thiện, trí huệ. Vẻ đẹp này khi người nhìn thấy không khởi lòng tà, không dẫn khởi tà tư tà niệm của người khác. Bất luận là người khác phái hay người cùng phái khi nhìn thấy sẽ sinh tâm ngưỡng mộ, không suy nghĩ vẩn vơ, bậy bạ. Vẻ đẹp được hình thành từ “Chân – Thiện – Mỹ – Huệ” chính là vẻ đẹp của sự trang nghiêm. Nét đoan trang và độ lượng của người phụ nữ giống như một vị tiểu thư khuê tú chứ không phải là một cô gái đẹp trong một gia đình thông thường. Nét đẹp đó càng nhìn càng thấy đẹp, càng lớn tuổi càng đẹp, không phải khi đã lớn tuổi thì khiến người chán ghét. Trải qua thời gian, mọi người càng cảm thấy cô ấy có ý nghĩa. Đây chính là vẻ đẹp toát ra từ trong một tâm hồn thuần tịnh thuần thiện, chứ không phải sự xinh đẹp bên ngoài còn nội tâm thì đầy ắp sự tự tư tự lợi. Đặc biệt thời nay có một số phụ nữ vừa mở miệng ra là chửi bới, nói chuyện không kiêng nể ai, không xét hoàn cảnh, thời điểm, nơi chốn.

Thế nên, lấy “nhược” làm cái đẹp là chỉ trong tâm có sự dịu dàng, nhân từ, lương thiện, nhưng thể hiện ra bên ngoài thì vô cùng có trí tuệ, linh hoạt uyển chuyển, có khả năng phán đoán tình hình, hoàn cảnh khiến người khác cảm thấy cô gái này có ý tứ, không phải là người bốc đồng xốc nổi. Phụ nữ như vậy mới có uy nghi, khiến người lập tức sinh tâm ngưỡng mộ, nên có câu rằng “quân tử bất trọng tắc bất uy” (người quân tử không điềm tĩnh thì chẳng có uy nghiêm).

BỈ NGẠN HỮU VÂN: SINH NAM NHƯ LANG, DO KHỦNG KỲ UÔNG – CHƯƠNG KÍNH THUẬN

(Tạm dịch: “Sinh con trai mạnh mẽ như sói, mà sợ nó nhút nhát nhu nhược)

Tục ngữ nói, sinh con trai thì mong nó giống như sói, chỉ sợ nói yếu đuối nhu nhược. Chữ “uông” nghĩa là gầy yếu, chỉ một loại động vật có xương cốt rất cong quẹo, hình dung như một người tàn tật. Vì sao dùng chó sói để hình dung người nam? Điều này có rất nhiều ý nghĩa ở bên trong. Đặc điểm của chó sói là chúng có một ý chí rất kiên trì, chúng có thể chịu khổ, có cảm giác vô cùng nhạy bén, có thể nhẫn chịu sự thống khổ lớn, cho dù thế nào cũng không chịu cúi đầu xin tha mạng. Đặc biệt là con sói đầu đàn rất có trí tuệ, có tài lãnh đạo và tinh thần đoàn đội. Khi một con sói xuất hiện thì bao giờ cũng có một bầy sói ở phía sau, rất có tinh thần tác chiến cùng đồng đội. Hy vọng người nam có được phẩm chất và phẩm hạnh như thế.

SINH NỮ NHƯ THỬ, DO KHỦNG KỲ HỔ

(Tạm dịch: Sinh con gái gan nhỏ như chuột mà sợ nó hung dữ như hổ)

Chúng ta biết gan của chuột rất nhỏ, thường nơm nớp sợ sệt. Nhưng chuột là loài rất nhạy bén, xử lý sự việc hết sức cẩn thận. Đồng thời chuột rất biết lo cho gia đình. Chúng biết dự trữ lương thực để đủ ăn, đủ uống, khi làm việc không có dã tâm lớn. Những điều này hình dung cho tính cách của phụ nữ. Đặc biệt rất sợ sinh ra con gái thì lại giống như con cọp mẹ. Đây là việc rất đáng sợ. Mặc dù hai sự so sánh trên không hoàn toàn miêu tả chính xác, bởi vì chỉ là tục ngữ nên chỉ nói lên từ một góc độ nào đó mà thôi. Người nam và người nữ trong xã hội có địa vị khác nhau, công việc khác nhau, sứ mạng khác nhau, đặc điểm tính cách khác nhau là để phù hợp với thiên tánh riêng của bản thân họ. Người nam khi sinh ra cần có tính cách mạnh mẽ của dương, còn người nữ nên có tính cách nhu thuận của âm. Điều này là phù hợp với đạo của trời đất. Trong quá trình học tập, thể tính riêng của nam và nữ cùng với cái đạo riêng của mỗi người sẽ được nhắc đi nhắc lại. Đồng thời trong quá trình học tập, hy vọng mọi người có thể vận dụng những đạo lý mà cổ Thánh, tiên Hiền đã dạy chúng ta vào cuộc sống. Nếu như sống trái với đạo lý này, ví dụ như là người nữ nhưng lại muốn mình giống như sói, như hổ thì sẽ hoàn toàn trái ngược với thiên tánh. Kết quả của người ấy sẽ như thế nào? Sẽ không thể nào vui vẻ, tự tại, không thể hạnh phúc được. Lúc nghe tôi giảng, có một cô cắt tóc rất ngắn nhìn giống như nam giới. Có một hôm cô đến nói với tôi: “Thưa cô! Tôi học Nữ Đức rất muốn giống hình tượng người phụ nữ mà cô đã giảng. Rất nhiều người không hiểu được vì sao tôi để tóc như vậy. Nhưng tôi cảm thấy cắt tóc như thế này rất thoải mái, rất tự tại, cũng không cần chải chuốt. Cô xem tôi có nên giữ kiểu tóc này hay không?”. Sau đó tôi nói: “Nếu như chị đã học Nữ Đức rồi, vậy thì người khác sẽ xem chị như một tấm gương. Mỗi lời nói, hành động của chị, cách ăn mặc trang điểm của chị sẽ ảnh hưởng đến cách nhìn của người khác đối với Nữ Đức. Nếu như chị nghĩ như vậy thì hãy buông xuống sở thích của mình mà thành tựu lòng tin của mọi người đối với Nữ Đức. Đây không phải là việc của riêng một cá nhân”. Bao gồm cả chính tôi cũng như vậy, bản thân tôi cũng có những sở thích riêng. Nhưng nếu như trong quá trình hoằng dương Nữ Đức mà đại chúng mong rằng thông qua sự hành trì và cách ăn mặc của tôi nhằm tạo nên niềm tin đối với đức hạnh này thì tôi cần phải phối hợp với mọi người, không nên cho rằng tôi thích như thế này. Như vậy sẽ không tốt, cần phải biết buông xuống sở thích của bản thân. Trong quá trình này, tôi tin rằng rất nhiều giáo viên hoằng dương văn hóa truyền thống đã buông xuống rất nhiều sở thích của bản thân họ, hưởng thụ của bản thân, thậm chí là sự nghiệp của bản thân chỉ với mục đích là để cho mọi người có thể tiến xa hơn.

Chương Ba: Kính Thuận (P1)
Chương Ba: Kính Thuận (P1)

Có một cô giáo đã gửi cho tôi một bức tranh chữ ghi rằng: “Yêu thương cha mẹ mình thì cũng yêu thương cha mẹ người, yêu thương con cái của mình thì cũng yêu thương con cái của người”. Câu nói này làm tôi suy nghĩ rất lâu. Khi nhìn thấy cha mẹ và con cái của mình, câu nói này đã hiện lên trong lòng tôi. Chính mình âm thầm lập chí, vì các người con trong thiên hạ biết hiếu kính cha mẹ, vì các người mẹ trong thiên hạ biết dạy dỗ con cái nên người, tôi sẽ buông xuống tất cả hưởng thụ của mình, buông xuống tự tư tự lợi, hy vọng chính mình có thể làm được “học vi nhân sư, hành vi thế phạm”.

Bởi vì trong quá trình dạy dỗ con cái, tôi thường xét lại chính mình giáo dục con cái như thế này có như lý như pháp hay không, khi tôi giảng bài cho mọi người có khiến mọi người nhận được lợi ích chân thật hay không, phải chăng con cái của người khác cũng gặp phải vấn đề tương tự mà người làm mẹ không biết nên xử trí thế nào. Những câu hỏi như vậy thật sự có lúc đã làm đầu óc tôi thức tỉnh, không còn chấp trước vào cách nghĩ của chính mình, sẽ biết “hành hữu bất đắc phản cầu chư kỷ” (làm việc không thành xét lại chính mình). Kỳ thật phải cám ơn con trai của tôi, nếu như mọi mặt nó đều tốt cả, không có một chút khuyết điểm gì thì chẳng có gì để dạy cả thì người khác sẽ nói: “Con của cô thiên tánh tốt như vậy, còn con của tôi thì không được thế”. Con trai của tôi cứ ra hết bài thi này đến bài thi khác cho tôi để tôi giải quyết, sau đó chia sẻ với mọi người làm thế nào để tìm ra đáp án. Thế nên, con người cần nên cảm ân hết thảy nghịch cảnh và nghịch duyên. Trong nghịch cảnh, con người thường tiến bộ nhanh hơn.

Nếu như bạn có một người mẹ chồng xét nét nghiêm khắc, hoặc là một người chồng tối ngày bận rộn làm ăn chẳng chút quan tâm, có một đứa con không chịu nghe lời thì gia đình sẽ giống như phòng thi. Mỗi người xuất hiện chính là vị quan ra đề cho bạn, đề ra càng khó thì điểm số bạn ghi được sẽ càng cao. Nếu như chúng ta than đề ra phức tạp không muốn trả lời, thậm chí bỏ thi thì chẳng phải là việc ngu ngốc hay sao?

Tôi phát hiện rằng những vấn đề mà bạn chưa giải quyết được trong đời sẽ luôn xuất hiện bên bạn. Bạn có trốn cũng trốn không được. Con người đến với thế gian này cần phải có dũng khí đối diện, giải quyết mà đáp án duy nhất để giải quyết chính là sự tin tưởng vào tình yêu, dụng tâm mà yêu thương. Tâm yêu thương chính là câu trả lời cho tất cả.

PHẬT TỬ THẤY TỐT, CÓ ÍCH CHO NGƯỜI CHO MÌNH XIN CHIA SẺ BÀI VIẾT
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Ngưỡng nguyện Đức Bồ-tát Quán Thế Âm gia hộ cho kẻ mù Được thấy, kẻ Điếc Được nghe, người Đau khổ Được an vui.
--------------------------------------
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
--------------------------------------

Subscribe

- Never miss a story with notifications

- Gain full access to our premium content

- Browse free from up to 5 devices at once

Bái viết mới nhất

spot_img