Đệ Tử Quy Chương VI: Thân Nhân – Gần Người Hiền (P1)
Contents
Đệ Tử Quy Chương VI: Thân Nhân – Gần Người Hiền (P1). Chương thứ sáu là “Thân nhân – Gần người hiền”. Chữ “thân” trong từ “thân nhân” là thân cận, ý nghĩa là học tập, thân cận người nhân đức.
CHƯƠNG SÁU – ĐỆ TỬ QUY
THÂN NHÂN – GẦN NGƯỜI HIỀN
Chương thứ sáu là “Thân nhân – Gần người hiền”. Chữ “thân” trong từ “thân nhân” là thân cận, ý nghĩa là học tập, thân cận người nhân đức. Có hai yếu tố tiên quyết để thành tựu học vấn của một người: Một là có thầy giỏi, hai là có bạn học tốt. Thầy giỏi chỉ đường giúp chúng ta, đem những lời giáo huấn quan trọng chỉ dạy cho chúng ta. Bạn học tốt có thể dìu dắt, nhắc nhở lẫn nhau, có thể “cùng khuyên thiện, cùng lập đức” và có thể “nghe khen sợ, nghe lỗi vui”. Có thái độ như vậy thì nhất định sẽ được “người hiền lương, dần gần gũi”.
Các vị xem, có phải “Đệ Tử Quy” có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống không? Sau này khi có người hỏi chúng ta những vấn đề về cuộc sống thì chúng ta không cần phải căng thẳng nữa rồi. Chỉ cần một quyển “Đệ Tử Quy” là đảm bảo các vị không có gì phải lo lắng cả. Các vị có tin hay không vậy? Phải có đủ lòng tin như vậy.
Một hôm có người hỏi chúng ta là cuộc sống của vợ chồng họ không được tốt đẹp thì phải làm sao. Chúng ta phải giúp đỡ họ. Cuộc sống vợ chồng không được tốt đẹp thì phải làm sao? Các vị phải nói ra câu gì để giúp họ hóa giải? Vì họ không biết nên các vị phải dùng những quan niệm sau để chỉ dẫn họ hóa giải sự xung đột giữa vợ chồng:
- “Ân phải báo, oán phải quên”. Bởi vì chúng ta chỉ nghĩ đến oán hận thì mới ở đó mà giận dỗi, nếu luôn luôn nghĩ đến sự cống hiến của đối phương thì sự giận dỗi đó có thể giảm đi phần lớn.
- “Sắp cho người, trước hỏi mình”, không nên luôn luôn đòi hỏi người khác mà phải xem mình đã làm được bao nhiêu.
- “Lời nhường nhịn, tức giận mất”; “vợ chồng lỗi, khuyên thay đổi, mặt ta vui, lời ta dịu”. Khi nói chuyện mà sắc mặt khó coi thì ai mà tiếp thu được, như vậy nhất định sẽ xảy ra xung đột rồi.
Khi bạn nói ra những câu Kinh văn này thì họ có thể tự kiểm điểm lại mình, vấn đề nan giải sẽ từ từ được hóa giải. Nếu như họ không tự kiểm điểm lại mình thì đảm bảo bài toán này sẽ không có cách giải. Cho nên cương lĩnh về đạo lý nhân sinh đã bao hàm trong “Đệ Tử Quy”. Chỉ cần bạn một môn thâm nhập “Đệ Tử Quy”, thực sự giải hành tương ưng thì sẽ khai mở trí tuệ.
Trong quan hệ giữa thầy và trò, quan hệ giữa bạn học với nhau, chúng ta cũng cần nắm được “cùng khuyên thiện, cùng lập đức”. Khi đối diện với thầy cô thì phải có thái độ ra sao để học tập thầy cô? “Cha mẹ gọi, trả lời ngay; cha mẹ bảo, chớ làm biếng”. Những bài học mà thầy cô dạy, chúng ta có được cắt giảm bớt không? Không được.
Cho nên chỉ cần thầy cô sai bảo là chúng ta phải nhanh chóng thực hiện, không được trì hoãn. Thời nay làm giáo viên rất khó, giáo viên rất sợ gây thù, kết oán với học sinh. Thấy học sinh không mấy vừa lòng thì thầy giáo sẽ rất tôn trọng học sinh để tránh đắc tội với chúng.
Nếu như học sinh làm theo lời chỉ bảo, thì thầy cô nhất định sẽ tận tâm, tận lực chỉ dạy. Cho nên chỉ cần chúng ta có thái độ “hiếu” trong chương “Ở nhà phải hiếu” để đối xử với thầy cô, thì tự tính lương thiện của chúng ta đã hiển lộ ra bên ngoài và chúng ta có thể nhanh chóng xây dựng được lý trí. Khi chúng ta dùng lòng chí thành, hiếu thảo, cung kính để đối xử với thầy cô thì tự tính lương thiện, trí tuệ của chúng ta sẽ nhanh chóng biểu lộ ra ngoài.
Dân tộc chúng ta có hai tinh thần quan trọng nhất đó là “hiếu đạo” và “sư đạo”. “Sư đạo” được xây dựng trên nền tảng của “hiếu đạo”. Cho nên mới nói: “Phù hiếu, đức chi bổn dã”, căn bản của “đạo đức” là ở chữ “hiếu”. Người biết hiếu thuận với cha mẹ thì họ nhất định sẽ mong muốn bản thân có thành tựu để lưu danh hậu thế, để cha mẹ được vinh hiển. Vì vậy đối với thầy cô, họ nhất định cũng sẽ vô cùng kính trọng.
Chúng ta cũng đã nói đến sự hợp tác giữa thầy cô và cha mẹ. Nếu giữa cha mẹ và thầy cô mà có sự hợp tác mật thiết thì có thể dạy bảo con trẻ được rất tốt. Tình hình hợp tác giữa thầy cô và cha mẹ thời nay có được tốt không?
Một là phụ huynh không nhận thức được sự quan trọng của giáo dục trong gia đình, có phụ huynh lại cảm thấy việc giáo dục con cái là việc của thầy cô. Hơn nữa, cũng do cưng chiều con cái, nên khi ở trường xảy ra chuyện gì, ví dụ như thầy giáo có mắng đứa trẻ này nhiều quá, đứa trẻ về nhà cũng không biết đã truyền đạt lại như thế nào, phụ huynh nghe xong thì đùng đùng nổi giận.
Rồi phụ huynh sẽ đi tìm ai? Đi tìm thầy giáo còn đỡ, thậm chí họ còn muốn trực tiếp đi gặp thầy hiệu trưởng để làm rõ sự tình, làm cho sự việc càng phức tạp hơn, bởi vì Hiệu trưởng cũng không có mặt tại hiện trường. Hơn nữa, ban đầu thầy giáo cũng chỉ là muốn răn dạy, hy vọng uốn nắn, muốn tốt cho con cái họ, nhưng họ làm ra hành động này thì có thể Hiệu trưởng sẽ phải đi gặp thầy giáo để nói chuyện.
Thế là lòng nhiệt tình của người thầy đã bị dập tắt rồi. Như vậy không chỉ làm ảnh hưởng đến tâm tình của thầy giáo, mà càng phiền phức hơn là làm ảnh hưởng đến thái độ của con cái đối với thầy cô giáo. Trong việc học thì “một phần thành kính được một phần lợi ích”.
Khi con cái thấy hơi một tí là cha mẹ đi kiện thầy cô, thì chúng có tôn trọng thầy cô không? Không thể nào. Khi thầy cô không dám dạy bảo nữa thì bọn trẻ làm sao có được đạo đức, làm sao mà hiếu thảo cho được! Đây là một vòng tuần hoàn xấu rồi.
Đương nhiên chúng ta là thầy cô giáo thì cũng phải tự kiểm điểm lại mình, tuyệt đối không thể cầu xin học sinh hay phụ huynh tôn trọng chúng ta. Thời nay không thể cầu xin như vậy được, “sư đạo” cũng tương đối suy thoái rồi. Phải nói như thế nào nhỉ? Giống như sau khi tôi thi vào trường sư phạm làm giáo viên, tôi gặp rất nhiều bạn bè, câu đầu tiên họ hỏi tôi gì? “Tiền lương một tháng của anh là bao nhiêu?”.
Như vậy có sư đạo không? Tại sao không có người nào gặp tôi và nói: “Anh đã thi vào trường sư phạm làm thầy giáo. Hàn Dũ có câu nói: Làm thầy chính là truyền đạo, truyền đạt kiến thức và giải đáp nghi hoặc đó”. Nếu nghe được như vậy thì tôi nhất định sẽ tràn đầy niềm vui. Họ lại không nói với tôi là: “Muốn giải đáp sự nghi hoặc của người khác thì trước tiên phải giải đáp được sự nghi hoặc của chính mình. Cho nên làm thầy giáo vẫn phải tiếp tục học tập, học làm thầy giáo thì phải khai mở trí tuệ mới được”.
Nếu họ nói như vậy thì đối với nghề giáo tôi nhất định sẽ đầy ắp động lực, hơn nữa cũng không dám buông lơi. Cho nên “sư đạo” cũng cần những người làm thầy cô như chúng ta đi xây dựng lại, chứ không thể đi cầu xin sự tôn trọng.
Có rất nhiều thầy cô giáo ở Hải Khẩu cũng tận tâm, tận lực đi dạy “Đệ Tử Quy”, thực hiện “Đệ Tử Quy”. Có một bà mẹ đã ghi vào sổ liên lạc: “Vô cùng cảm tạ! Vô cùng cảm tạ! Vô cùng cảm tạ!”. Bà dùng liên tiếp ba câu “vô cùng cảm tạ!” để nói lời cảm ơn với thầy giáo.
Có một vị phụ huynh quê ở nội địa, trước hôm ba mươi Tết, khi đang ở sân bay Hải Khẩu đợi để lên máy bay về quê ăn Tết đã gọi điện thoại cho thầy giáo của con ông và nói là: “Thưa thầy Lưu! Hiện nay cả gia đình chúng tôi chuẩn bị về nội địa để ăn Tết, tôi đặc biệt gọi điện cho thầy để cáo từ”.
Điều này thể hiện rằng vị phụ huynh này đối với thầy giáo rất kính trọng. Sự vô cùng kính trọng này là kết quả, vậy nguyên nhân là ở đâu? Là do sự cống hiến chân thành của thầy giáo khiến cho phụ huynh cũng có thể cảm nhận được. Sự tôn nghiêm của “sư đạo” cần phải nhờ vào sự giáo dục con cái của phụ huynh và chính bản thân các thầy cô giáo làm ra tấm gương tốt cho người ta tôn trọng.
Người thầy vào thời xưa đều sống thanh bần vui với đạo, rất được đại chúng trong xã hội tôn trọng. Phụ huynh chân thật cũng rất biết nắm lấy cơ hội để dạy bảo con cái kính trọng thầy. Cho nên thời xưa có lễ bái sư.
Người cha dẫn theo đứa con (đứa bé có thể mới lên năm, sáu tuổi hoặc bảy, tám tuổi) đến phòng dạy học của thầy giáo, cha đứng ở phía trước, con đứng ở phía sau, đầu tiên là hành đại lễ “tam quỳ, cửu khấu” (ba lần quỳ, chín lần khấu đầu) trước tượng của Khổng Phu Tử. Bởi vì những giáo huấn của tất cả các vị Thánh Hiền trong “Ngũ Kinh” đều được Khổng Phu Tử trích ra chỉnh lý vô cùng hoàn thiện, cho nên chúng ta tôn Khổng Phu Tử là “Chí Thánh Tiên Sư”.
Khi hành lễ bái sư, đầu tiên, mọi người phải quỳ lạy ba lần, dập đầu chín lần để hành lễ với Khổng Phu Tử. Sau khi hành lễ xong thì thầy giáo ngồi lên trên ghế, người cha dắt theo con mình cũng hành lễ ba lần quỳ, chín lần khấu đầu đối với thầy giáo. Người mà đứa bé năm, sáu tuổi tôn trọng nhất là ai? Là cha mẹ, đặc biệt là người cha.
Bởi vì “cha nghiêm, mẹ hiền”, đối với cha thì trẻ nhỏ rất kính sợ, nên khi người cha cung kính đối với thầy giáo như vậy thì trong tâm hồn non nớt của chúng, đối với thầy giáo chúng nhất định sẽ không dám lơ là chậm trễ, không dám khinh suất mà vô cùng kính trọng. Tuy chỉ là lễ nghi tam quỳ cửu khấu, nhưng đã làm cho cái gốc của sự học của con trẻ được cắm xuống. Đó là sự kính trọng.
Thời nay có còn lễ nghi hay không? Không còn nữa. Năm thứ nhất khi tôi làm thầy giáo, tôi dạy lớp 6. Có một bà cụ khoảng sáu – bảy mươi tuổi, vì cháu quên không đem vở bài tập đến lớp nên bà đã đem tới giúp cháu. Bà phải leo bốn tầng lầu, đến nỗi thở gấp. Việc bà cụ giúp cháu như vậy là đúng hay sai? Không đúng rồi.
Cháu đã lớn như vậy thì phải tự mình chịu trách nhiệm lấy, nếu không thì cả đời cháu sẽ không học được tinh thần trách nhiệm. Khi vị trưởng bối này ngẩng đầu lên nhìn thấy tôi thì liền lập tức gập người xuống tới chín mươi độ để cúi chào tôi. Bà nói: “Thầy Thái! Chào thầy!”. Cái cúi chào đó làm cho tâm cảnh của tôi cảm thấy khác hẳn: “Liệu hai chữ “thầy giáo” đó gánh vác có dễ không?”. Các vị có biết tại sao lưng của tôi hơi bị còng không?
Trưởng bối cúi chào và nói “chào thầy!” như vậy, trách nhiệm của người làm thầy giáo thật nặng nề. Nếu như chúng ta không cố gắng dạy dỗ con cháu của họ thì làm sao mà xứng đáng với cái cúi chào chân thành này! Vì vậy tôi chợt hiểu ra rằng, thời xưa hành lễ bái sư, khi cha của học sinh hành lễ tam quỳ cửu khấu với thầy giáo, xin hỏi trong lòng của vị thầy đó có cảm nhận như thế nào? Cảm thấy có trách nhiệm.
Người ta đối xử với mình như vậy, nếu như mình không dạy dỗ tốt con cái của người ta thì làm sao mà xứng đáng chứ! Trong lòng người thầy giáo như có đeo một khối đá lớn vậy. Đến khi con trẻ thực sự có thành tựu thì trong lòng người thầy mới có một chút an ủi. Bởi vậy, những vị thầy ngồi bên trên để cho người ta cúi lạy sẽ không có cảm giác thoải mái dễ chịu đâu, mà có cảm giác nơm nớp lo sợ, như đến gần vực sâu, như là đi trên băng mỏng vậy.
Thầy giáo không chỉ nghĩ đến trách nhiệm đối với con cái của người ta, đối với gia đình người ta mà còn vì không muốn sự truyền thừa văn hóa ngàn năm của Tổ Tiên đến đời mình thì bị thất truyền. Đây cũng là bổn phận mà họ luôn luôn phải ghi nhớ. Cho nên Đạo Nho đặc biệt nhấn mạnh đến “kế nghiệp thầy”. Thế nào gọi là kế nghiệp thầy? Điều này đáng để chúng ta tìm hiểu.
Thầy của tôi là giáo sư Thích Tịnh Không. Ngài đến Đài Trung để thọ giáo với Ngài Lý Bỉnh Nam. Lần đầu tiên đến, Lý lão sư nói với Ngài là: “Nếu con theo thầy học thì thầy có ba điều kiện con nhất định phải tuân thủ. Con phải tuân thủ được thì thầy mới dạy con.
- Điều thứ nhất là con chỉ được nghe theo lời của một mình ta.
- Điều thứ hai là những sách con muốn xem, những gì con muốn tiếp cận phải được sự đồng ý của ta thì mới được xem.
- Điều thứ ba là những điều trước đây con đã học, ta không thừa nhận”.
Bởi vì lão sư của tôi lúc đó cũng đã đi giảng Kinh rồi, nhưng Lý lão sư lại nói là những gì Ngài học trước đây đều không thừa nhận. Chúng ta hãy xem xét kỹ càng ba quy định này. Chúng ta không nên chỉ nhìn thấy mặt nghiêm khắc của quy định này, mà phải xem sự ảnh hưởng, lợi ích của quy định này về sau, như vậy chúng ta mới có thể yên tâm tuân thủ.
Tại vì sao điều kiện thứ nhất là chỉ được nghe một mình thầy giảng? Bởi vì khi chúng ta chưa khế nhập được học vấn chân thật thì rất có khả năng sẽ loay hoay ở trên phần ngọn. Các vị càng tiếp xúc với nhiều sự vật thì đến cuối cùng sẽ không tìm ra được đầu mối.
Một vị thầy thì một con đường, hai vị thầy thì hai con đường, ba vị thầy thì chúng ta sẽ đứng ở ngã ba, bốn vị thầy thì chúng ta đứng ở ngã tư rồi. Các vị hãy bình lặng mà suy xét và quan sát, các vị có thấy rằng xung quanh chúng ta có rất nhiều người thích đọc sách, nhưng khi họ đọc được ba năm, năm năm thì tư tưởng của họ càng ngày càng lộn xộn hay không?
Ví dụ như họ thấy một tác giả nước ngoài nào đó đã viết như thế này, rồi lại đọc một cuốn sách khác viết như thế nọ, cứ như vậy thì tư tưởng quan niệm của họ sẽ không nắm vững được cương lĩnh đạo đức. Cho nên “giáo chi đạo, quý dĩ chuyên”. Dạy và học là một việc, nên đạo học phải quý ở chữ “chuyên nhất” mới được. Nếu như học bốn vị thầy giáo thì sẽ biến thành ở ngã tư đường rồi.
Hơn nữa, khi chúng ta học đã loạn rồi, ví dụ như các vị học được ba năm, năm năm đã bị loạn rồi, phải học lại từ đầu thì có dễ hay không? Như vậy không dễ rồi, chúng ta phải mất rất nhiều năm để loại bỏ những tư tưởng sai lầm. Do đó, chọn thầy không thể không cẩn thận. Chọn thầy phải thật cẩn thận.
Từ bài giảng trong mấy ngày hôm nay của chúng ta, quý vị có cảm thấy sự quan trọng của việc “thận ư thủy” (cẩn thận từ lúc ban đầu) hay không? Các vị phải có trí tuệ thì mới giúp cho con cái có thể “cẩn thận ngay từ lúc ban đầu”. Các vị có trí tuệ thì mới không khiến cho quyết định của mình bị thiên lệch.
Như vậy, vì sao thầy giáo đưa ra điều kiện thứ nhất là ngoài thầy ra thì học sinh không được nghe bất kỳ một người nào khác? Là để bảo vệ tri kiến của học trò mình.
Điều thứ hai là những sách vở muốn tiếp xúc phải được sự đồng ý của thầy, nếu không thì không được xem. Đây cũng là yêu thương bảo vệ học trò, để cho học trò chuyên tâm, không bị rối loạn. Bởi vì có chuyên tâm thì mới đạt được định, có định rồi thì mới khai mở trí tuệ. Do đó, điều kiện thứ hai này là tất cả các cuốn sách muốn xem phải được sự đồng ý của thầy thì mới được xem. Đây cũng là bảo vệ học trò của mình.
Điều thứ ba là tất cả những điều trước đây đã học đều không được thừa nhận. Điều này có dụng ý gì? Dụng ý ra sao? Có câu nói: “Bình rỗng thì kêu to, người biết nửa vời là người khó dạy nhất”. Cho nên Lý lão sư muốn Ngài Tịnh Không buông bỏ hết toàn bộ, buông bỏ hết mọi thứ để trong tâm được trống rỗng, dùng thái độ khiêm tốn, nhún nhường để thọ giáo, như vậy mới có thể học được tốt.
Ba điều kiện trên đây có ý nghĩa rất sâu xa. Thầy của tôi đã đồng ý. Kết quả khi tuân thủ được ba tháng thì trong lòng Ngài vô cùng hoan hỷ, Ngài liền chạy đến nói với Lý Lão sư là: “Thưa thầy! Trong ba tháng này con đã cảm nhận được, nhờ tuân thủ ba điều kiện này mà tâm của con càng ngày càng thanh tịnh”. Tâm thanh tịnh mới có thể sinh trí tuệ, mới có sự giác chiếu, cho nên Ngài đã nói với Lý Lão sư là: “Con không chỉ tuân thủ trong năm năm, con xin tăng lên gấp đôi”, nghĩa là sẽ tuân thủ trong mười năm.
Khi chúng ta muốn học tập theo Thánh Hiền thời xưa thì nhất định chúng ta phải tuân thủ theo ba điều kiện trên, không được xem quá nhiều sách tạp nhạp! Nhất định phải đi theo con đường cũ, nếu không thì sẽ là “không nghe lời người xưa, thiệt thòi ngay trước mắt”. Chúng ta muốn tìm thầy, muốn theo thầy học cho tốt, điều cốt yếu nhất của chữ “theo” này không phải là theo bằng thân thể này mà là tâm phải theo.
Thầy giáo dạy một câu, chúng ta phải thực hiện một câu. Giống như ngày xưa, Mạnh Phu Tử tuy không gặp được Khổng Phu Tử, nhưng Mạnh Phu Tử vô cùng kính trọng và thành kính bái Khổng Phu Tử làm thầy. Tấm lòng kính trọng và chân thành của ông đã vượt qua không gian và thời gian, cho nên ông đã học tập rất tốt và được tôn là “Á Thánh”, là Thánh nhân đứng sau Khổng Phu Tử.
Tư Mã Thiên cũng bái Tả Khâu Minh làm thầy, vô cùng kính trọng khi đọc sách “Tả Truyện”. Sau đó Tư Mã Thiên cũng tiến sâu vào công phu nghiên cứu văn chương của Tả Khâu Minh, nhờ vậy ông đã viết ra một tác phẩm bất hủ và vĩ đại, đó là bộ “Sử Ký”. Như vậy, chúng ta có thể theo Thánh nhân học được tốt hay không, quan trọng nhất là phải nâng cao sự hiếu học và lòng thành kính của bản thân mình đối với Kinh điển, đối với thiện hữu, đối với thiện tri thức.