15.4 C
London
Thứ Bảy, Tháng Ba 22, 2025
Trang chủĐệ tử quyĐệ Tử Quy Chương V: "Thế Phục Người, Người Không Phục"

Đệ Tử Quy Chương V: “Thế Phục Người, Người Không Phục”

Date:

Bài Viết Liên Quan

spot_imgspot_img

Đệ Tử Quy Chương V: “Thế Phục Người, Người Không Phục”

Đệ Tử Quy Chương V: “Thế Phục Người, Người Không Phục”. Nếu như chúng ta dùng uy quyền, dùng địa vị của mình để chèn ép người khác thì trong lòng họ sẽ không nể phục. Tuy rằng ngoài mặt đối với chúng ta rất cung kính, nhưng sau khi cúi chào cung kính rồi, chúng ta vừa đi khỏi thì họ có thể sẽ trở mặt, có thể sẽ mắng chửi chúng ta.

5.12 Kinh văn – Đệ Tử Quy

“Thế phục nhân, tâm bất nhiên. Lý phục nhân, phương vô ngôn”.

Thế phục người, người không phục. Lý phục người, tâm mới phục”.

Nếu như chúng ta dùng uy quyền, dùng địa vị của mình để chèn ép người khác thì trong lòng họ sẽ không nể phục. Tuy rằng ngoài mặt đối với chúng ta rất cung kính, nhưng sau khi cúi chào cung kính rồi, chúng ta vừa đi khỏi thì họ có thể sẽ trở mặt, có thể sẽ mắng chửi chúng ta. Nếu như chúng ta chỉ được người khác kính trọng ngoài mặt, thì chúng ta cũng nên kiểm điểm lại bản thân.

Bởi vì sự tôn trọng như vậy rất là phù phiếm và giả dối, trong khi cái mà đời người truy cầu thì lại rất thực tế, phải là một cuộc đời chân thực. Có một em nhỏ nói là: “Trong quá trình trưởng thành, mẹ đánh em, em đều quên hết, nhưng em lại nhớ rất rõ mỗi lần cha đánh em”. Cũng đều là sự trừng phạt nhưng tại vì sao lại khác nhau đến vậy?

Động cơ mẹ đánh em là gì? Là yêu thương em, là dạy dỗ em, cho nên sau khi bị mẹ đánh thì trong lòng em biết được là em đã sai và sẽ sửa sai. Nhưng động cơ của cha khi đánh em không phải là để dạy bảo, mà có thể khi cơn giận nổi lên thì cha đánh em một trận.

Cho nên trong lòng em rất không phục cha của mình và mỗi lần ăn đòn em cũng đều nhớ rõ. Trẻ nhỏ cũng rất biết chúng ta dùng thái độ gì để đối xử với chúng. Chúng cảm nhận được rất rõ ràng. Cho nên chúng ta phải “lý phục người, tâm mới phục”.

Trong gia đình là như vậy, trong công việc, trong công ty của chúng ta cũng phải như vậy. Cho nên người làm lãnh đạo nhất định phải có quy củ. Không thể hôm nay thích người này thì trọng dụng họ, ngày mai không thích nữa thì cho dù họ có năng lực, các vị vẫn chèn ép họ.

Dùng quyền lực để ép buộc người khác thì không thể nào có được lòng người ủng hộ. Nên tuân thủ đạo lý: “Lý phục người, tâm mới phục”, phải dùng sự bình đẳng thì mới có thể làm cho lòng người được bình hòa. Phải dùng sự quan tâm, dùng lòng thương yêu kính trọng thì chúng ta mới có thể làm cho không khí của cả tập thể càng ngày càng hòa thuận, càng ngày càng tốt lành.

Chúng ta hãy xem tổng quan lịch sử trong mấy nghìn năm của dân tộc chúng ta, triều đại nào chỉ dùng quyền lực, dùng vũ lực để chiếm lấy thiên hạ thì thời gian tồn tại của triều đại đó không được lâu dài. Còn những triều đại nào lấy đạo đức, lấy “hiếu”, “đễ” giáo hóa nhân dân, lấy thân làm gương thì thời gian tồn tại của triều đại đó khá lâu dài, hơn nữa còn có sự ảnh hưởng rất sâu xa đến đời sau.

Đệ Tử Quy Chương V: "Thế Phục Người, Người Không Phục"
Đệ Tử Quy Chương V: “Thế Phục Người, Người Không Phục”

Chúng ta hãy xem, triều đại nào ở Trung Quốc duy trì lâu dài nhất? Là triều nhà Chu. Nhà Chu lấy đức để trị thiên hạ, dùng đạo lý để thu phục lòng người. Chúng ta hãy xem, dùng vũ lực để chiếm lấy thiên hạ như triều đại nhà Tần chỉ được mấy mươi năm thì bị lật đổ.

Cho nên từ trong lịch sử chúng ta có thể học được rất nhiều tấm gương, đó là muốn quản lý gia đình, quản lý xí nghiệp lâu dài, an ổn thì chúng ta tuyệt đối phải dùng đạo đức, tuyệt đối phải dùng lý trí mới có thể cảm được lòng người.

Nhờ lịch sử chúng ta có thể từ việc quá khứ mà đoán biết được tương lai, không nên dẫm lên vết xe đổ của người xưa. Như vậy mới không phụ lòng Tổ tiên chúng ta đã để lại bộ sách “Nhị Thập Ngũ Sử” (25 Bộ Sử Ký) của Trung Quốc để giúp đỡ cho cuộc đời của chúng ta.

Đây là câu Kinh văn cuối cùng trong chương “Yêu bình đẳng”. Cụm từ Yêu bình đẳng” này, dùng danh từ thời nay mà nói thì chính là học vấn về mối quan hệ giao tế giữa người với người. Làm thế nào để người và người giao tế với nhau được tốt? Đó là phải thực hiện được những lời dạy trong chương “Yêu bình đẳng” của “Đệ Tử Quy”.

Thật ra, để thương yêu tất cả mọi người thì trước tiên chúng ta phải bắt đầu từ cái gốc căn bản là “hiếu” và “đễ”. Có người nào mà ngay lập tức liền có thể thương yêu tất cả mọi người không? Nhất định chúng ta phải bắt đầu học quan tâm, cống hiến cho những người trong gia đình.

Cho nên, Khổng Phu Tử mới nói trong “Luận Ngữ” là: “Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dữ” (Hiếu và đễ là cái gốc của việc làm người). Tất cả năng lực xây dựng mối quan hệ giữa người với người tất nhiên đều xuất phát từ trong gia đình. Việc xây dựng nhân cách của con người, mấu chốt vẫn là từ trong gia đình.

Cho nên người làm cha mẹ nhất định phải rất cẩn thận, bởi vì sự giáo dục trong gia đình hàng ngày đều ảnh hưởng một cách âm thầm lên tính cách con trẻ. Chúng tôi đem mối quan hệ giữa người với người này biến thành một chữ “nhường”, chữ “nhường” trong từ “nhường nhịn”: “Nhượng tắc hữu dư, tranh tắc bất túc” (nhường nhịn ắt có dư, tranh giành ắt thiếu hụt).

Vì vậy, con người chung sống với nhau phải biết nhường nhịn. Nhường nhịn là khoảng cách đẹp nhất giữa người với người. Khi gặp một người bạn rất lịch sự thì các vị có cảm giác như thế nào? Rất thoải mái, rất vui vẻ. Cho nên thái độ lịch sự này là khoảng cách đẹp nhất giữa người với người. Cho dù là thân thiết đến mấy, hoặc là vợ chồng hay cha con cũng phải dùng lễ mà đối xử với nhau, không thể vì quá thân mà không tôn trọng họ nữa.

Ví dụ như chúng ta vào phòng người khác cũng không gõ cửa mà cứ đi vào, một lần, hai lần thì có thể họ còn chấp nhận, nhưng nhiều lần thì họ sẽ oán giận. Do vậy, người thân đến mấy cũng phải tôn trọng, cũng phải dùng lễ mà đối đãi, duy trì khoảng cách tốt đẹp nhất. Khi một đứa trẻ từ nhỏ đã biết dùng lễ để đối đãi với người khác thì chúng sẽ trở thành người hiểu được chừng mực, có chừng mực. Do đó, việc học lễ rất quan trọng.

Thật ra tất cả những lời giáo huấn trong “Đệ Tử Quy” đều có liên quan đến lễ nghĩa:

  • Cung kính đối với cha mẹ chính là chương “Ở nhà phải hiếu”, cũng là lễ.
  • Tiếp theo là chương “Biểu hiện của người em”: Anh em yêu thương lẫn nhau, tôn trọng trưởng bối cũng là lễ.
  • Trong chương về “Cẩn thận”: Đối với đồ vật cũng phải quý trọng, để đồ vật phải có vị trí, đối với thực phẩm không được lãng phí, với ăn uống, chớ kén chọn”. Đây là dùng lễ mà đối xử với thực phẩm.
  • Chương tiếp theo về “Tín”, phàm nói ra, tín trước tiên” cũng là sự lễ phép trong lời nói của chúng ta đối với người khác. Những lời đã nói thì không thể không thực hiện, nếu không thì sẽ thất tín, sẽ thất lễ. Trong “Nhạc Kinh” có nhắc tới: “Lễ giả thiên địa chi tự dã (lễ là trật tự của trời đất), cho nên chữ “lễ” trong từ “lễ phép” có sự tương thông với đạo lý. Tục ngữ có câu: “Hữu lý tẩu biến thiên hạ” (có lý có lẽ đi đâu cũng thuận buồm xuôi gió), đó là quy luật rất tự nhiên giữa người với người. Chúng ta không thể vượt qua quy luật này, nếu không sẽ xảy ra xung đột.
  • Trong chương “Yêu bình đẳng” cũng nói về thái độ lễ phép.
  • Trong hai chương tiếp theo là “Gần người hiền” và “Có dư sức thì học văn”, đương nhiên là đối với người nhân đức, đối với thầy cô thì chúng ta nhất định phải lấy lễ để đối xử. Đối với việc cầu học vấn, chúng ta phải dùng đến tâm cung kính. Cho nên mới nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”.

Bản chất của lễ là tâm cung kính, mà tâm cung kính chính là bản chất thiện của chúng ta, là chân tâm của chúng ta. Cho nên chúng ta phải học lễ nghĩa, nhường nhịn. Con người chung sống với nhau cũng cần phải học cách nhẫn nhịn. Chúng ta hãy xem chữ “nhẫn” gồm một chữ “đao” và một chữ “tâm”. Đây là chữ hội ý, thể hiện bản lãnh của chữ “nhẫn” phải đạt đến cảnh giới là người ta cầm dao đâm vào ngực chúng ta, chúng ta cũng không vì thế mà lay động.

Đây không phải là người ta thực sự cầm dao đâm vào ngực chúng ta, mà con dao này đại biểu cho những lời nói sắc nhọn của người khác phỉ báng, chế nhạo chúng ta. Những lúc này thì chúng ta cũng phải có thể nhẫn nhịn được. Bởi chúng ta phải hiểu là những phản ứng tình cảm này cũng chỉ là tạm thời, chúng ta không nên chấp nhất với họ mà phải có thái độ bao dung.

Có một câu châm ngôn là: “Đem cái tâm khoan thứ chính mình mà khoan thứ người khác, ắt sẽ kết giao nhiều bạn bè; Đem cái tâm trách người mà trách bản thân, ắt sẽ ít phạm sai lầm”. Thật ra có rất nhiều thái độ mà chỉ cần chúng ta thay đổi quan niệm thì có thể từ địa ngục lên đến thiên đường.

Đạo lý này mọi người đều có thể cảm nhận được. Hàng ngày chúng ta tha thứ cho chính mình bao nhiêu lần? Rất nhiều lần. Vậy mà khi người khác phạm phải sai lầm thì chúng ta lại không kìm nén nổi.

Cho nên chúng ta phải thay đổi cách nhìn, lấy lòng khoan thứ chính mình mà khoan thứ người khác, như vậy thì người khác sống với chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái, không có áp lực. Vì vậy, chúng ta mới có thể “toàn giao”, có thể kết giao với rất nhiều bạn bè.

“Dĩ trách nhân”, chúng ta hàng ngày đều nhìn thấy người khác có rất nhiều lỗi lầm. Vậy hãy dùng thái độ chỉ trích người khác để kiểm điểm lại bản thân, xét lại bản thân, yêu cầu bản thân. Như vậy thì đức hạnh của chúng ta sẽ tiến bộ nhanh chóng, chúng ta mới ít phạm sai lầm.

Cho nên điều quan trọng nhất trong sự nhường nhịn đó là phải có tấm lòng khoan thứ. Tử Cống từng hỏi Khổng Tử là: “Thưa Phu Tử! Có chữ nào có thể phụng hành cả đời không?”. Khổng Phu Tử liền đưa ra chữ “thứ” trong “khoan thứ”. Thật ra ý nghĩa của chữ “thứ” với chữ “nhân” trong “nhân ái” hoàn toàn dung hòa với nhau. Người khoan thứ dùng tâm khoan thứ mình mà khoan thứ người khác (“thứ giả như kỳ tâm”).

Chữ bên trên chữ “thứ” là chữ “như”, bên dưới là chữ “tâm”, đó là luôn luôn suy nghĩ từ góc độ của người khác thì tự nhiên rất nhiều xung đột sẽ được giải quyết. Cho nên biết “nhẫn nhịn” thì có thể hóa giải được sự nóng giận dẫn đến đấu tranh.

Tục ngữ có câu: “Nhẫn một lúc sóng yên gió lặng, lùi một bước biển rộng trời cao”. Thật ra trong lúc nhẫn nhịn, chúng ta đã mở rộng tấm lòng, vậy là chúng ta đã thực hiện được câu “lý phục người, tâm mới phục”, và đồng thời sẽ thức tỉnh tâm hổ thẹn của họ. Bởi rốt cuộc khi một người đang nóng giận thì họ luôn luôn xử sự theo cảm tính, đến khi bình tĩnh trở lại thì họ sẽ cảm thấy mình đã sai.

Cho nên sự nhẫn nhịn này đã nhẫn nhịn ra đức hạnh của mình, cũng nhẫn nhịn ra sự hổ thẹn của đối phương, hơn nữa còn duy trì được mối quan hệ giữa hai bên. Bất luận là nhân duyên đối với người thân hay bạn bè thì cũng rất khó mà có được, do đó đừng để cho tình bạn ấm áp trong nhiều năm chỉ vì một câu nói đau lòng mà mất đi.

Như vậy thật không tốt. Cho nên lúc này chúng ta phải nghĩ đến lời nhường nhịn, tức giận mất”, nhất định phải kìm nén tâm trạng, kìm nén sự tức giận.

Người với người sống chung với nhau, ngoài việc phải “lễ nhượng” ra thì còn phải “nhẫn nhịn”, tiếp đến còn phải “khiêm nhượng”. Khi chúng ta hiểu được “khiêm nhượng” thì người khác như được tắm trong gió xuân. Ngược lại, khi chúng ta có tiền của, có tài mà dương dương đắc ý thì thái độ kiêu ngạo này sẽ làm cho bạn bè, người thân xung quanh cảm thấy bị áp lực.

Các vị xem, khi chúng ta còn nhỏ, một số bạn học khi thi có thành tích rất tốt. Họ nói với chúng ta là họ về nhà cũng không ôn bài mà thi được như vậy. Chúng ta về nhà ôn bài rất vất vả thế mà khi thi lại không bằng họ. Họ còn nói với chúng ta: “Tôi về nhà cũng chỉ chơi thôi, không ôn bài gì cả”. Thái độ như vậy là không tốt. Khi người khác đang không được như ý mà các vị lại kể những việc đắc ý của mình thì sẽ làm cho người ta không còn mặt mũi nào nữa.

Thái độ kiêu ngạo này sẽ làm người khác bị áp lực, làm tổn thương ấn tượng tốt đẹp và mối quan hệ tốt giữa người với người. Cho nên, “khiêm nhượng” rất quan trọng. Khiêm nhượng có thể cho người khác một lối thoát. Không nên để cho người khác cảm thấy kém cỏi hơn mình, cảm thấy khó chịu.

Ngoài việc để cho người khác cảm thấy thoải mái, dễ chịu, khi chúng ta khiêm tốn thì chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để học hỏi, có thể rất nhiều trưởng bối muốn dìu dắt, hướng dẫn chúng ta. Cho nên, chữ “khiêm” có rất nhiều lợi ích. Trong “Kinh Dịch” có nói: “Khiêm quái lục hào giai cát” (sáu hào trong quẻ khiêm đều tốt lành).

Khi chúng ta luôn luôn khiêm tốn ẩn giấu tài năng của mình, luôn luôn cho người khác cơ hội thể hiện thì chúng ta dần dần sẽ trở thành một người luôn biết nghĩ cho người khác.

Khi chúng ta:

  • Dạy bảo con cái từ nhỏ đã biết lễ nhượng thì chúng sẽ trở thành người biết chừng mực.
  • Dạy bảo con cái nhẫn nhịn thì chúng có thể sống hòa thuận với người khác mà không xảy ra xung đột.
  • Dạy bảo con cái biết khiêm nhượng thì chúng sẽ luôn luôn khiêm tốn, biết nghĩ cho người khác, biết nhường đất diễn cho người khác.

Chúng ta không nên tranh giành, vì tranh giành thì nhất định sẽ bắt đầu từ cạnh tranh, cuối cùng sẽ trở thành đấu tranh, tiếp đến sẽ là chiến tranh. Nhường nhịn có thể có được tình bạn, tranh giành tất nhiên sẽ có thêm kẻ thù. Cuối cùng thì phần lớn sức lực của cuộc sống đều hao tốn vào việc làm sao để phòng chống người khác làm hại mình. Sống như vậy thì rất là mệt mỏi.

Xem tiếp phần sau: CHƯƠNG SÁU: THÂN NHÂN – GẦN NGƯỜI HIỀN

PHẬT TỬ THẤY TỐT, CÓ ÍCH CHO NGƯỜI CHO MÌNH XIN CHIA SẺ BÀI VIẾT
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Ngưỡng nguyện Đức Bồ-tát Quán Thế Âm gia hộ cho kẻ mù Được thấy, kẻ Điếc Được nghe, người Đau khổ Được an vui.
--------------------------------------
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
--------------------------------------

Subscribe

- Never miss a story with notifications

- Gain full access to our premium content

- Browse free from up to 5 devices at once

Bái viết mới nhất

spot_img