Đệ Tử Quy Chương IV: “Thấy Người Tốt, Nên Sửa Mình” (P2)
Contents
Đệ Tử Quy Chương IV: “Thấy Người Tốt, Nên Sửa Mình” (P2). Trong sách “Liễu Phàm Tứ Huấn” cũng đem “thiện” quy nạp thành mười điều.
4.5 Kinh văn – Đệ Tử Quy
“Kiến nhân thiện, tức tư tề. Tung khứ viễn, dĩ tiệm tê”.
“Thấy người tốt, nên sửa mình. Dù còn xa, cũng dần kịp”.
(Tiếp phần trước)
Mười Điều Thiện Trong “Liễu Phàm Tứ Huấn”
Trong sách “Liễu Phàm Tứ Huấn” cũng đem “thiện” quy nạp thành mười điều:
- Điều thứ nhất: “Giữ lòng yêu kính”. Việc “Giữ lòng yêu kính” này nên làm thế nào để thực hiện? Trước tiên nên yêu ai, kính ai? Học “Đệ Tử Quy” có thể làm được điều này.
- Điều thứ hai: “Kính trọng người trên”. Ở nhà kính trọng cha mẹ, ở công ty kính trọng cấp trên. Ví dụ như chúng ta ở trường thì phải kính trọng hiệu trưởng, kính trọng những vị quan chức trong ngành giáo dục. Chúng ta cũng phải kính trọng người lãnh đạo trong chính phủ của chúng ta, tuyệt đối không được phê bình trắng trợn. Như thế cũng là không kính trọng đối với lãnh đạo chính phủ, là bất kính. Đây là kính trọng trưởng bối.
- Điều thứ ba: “Cùng với người làm việc thiện”. Thực ra điều này chúng ta có thể làm được một cách dễ dàng. Ví dụ quý vị đang ở trước cổng trường, nhìn thấy có một phụ huynh đang nhặt rác, chúng ta cũng có thể lập tức làm cùng với họ. Đây là “cùng với người làm việc thiện”.
- Điều thứ tư: “Khuyên người làm việc thiện”. Khuyên như thế nào? Khi còn học đại học, tôi nghe được một câu nói cảm thấy rất có đạo lý là: “Đối với người đã trưởng thành, người ta không nghe quý vị nói gì mà người ta sẽ xem quý vị làm gì”. Bởi vì người lớn thường hay cố chấp, quý vị dùng lời để nói chưa chắc đã lay chuyển được họ. Họ cần phải nhìn thấy bằng chứng thực tế. Nếu quý vị chỉ nói suông, nhất định họ sẽ nói: “Anh cũng giống tôi thôi, anh có tư cách gì để nói tôi”. Cho nên đại đa số là phải dùng hành động để khuyên, dùng cách “lập thân hành đạo” để cảm hóa.
Vào thời Tam Quốc, có một vị danh thần tên là Quản Ninh. Quản Ninh cai trị khu vực của ông cũng rất tốt. Khi đi trên đường, nếu ông nhìn thấy những việc như bò chạy lung tung, dẫm đạp vào ruộng của người ta thì ông lập tức dắt con bò này lại và đợi ở dưới bóng cây cho đến khi người chủ của con bò này đến. Khi người chủ của con bò đi đến, nhìn thấy vị quan của mình ở đó, lại nhìn thấy con bò của mình đã làm ra những việc xấu như vậy thì sẽ rất hổ thẹn. Quản Ninh có cần mắng anh ta câu nào không? Không! Nhưng tôi tin rằng người chủ này sẽ hổ thẹn đến nỗi muốn chui xuống đất cho xong. Đây là dùng đức hạnh để cảm hóa.
Thời đó, nhân dân của ông cũng thường xuyên phải đi lấy nước, bởi vì chỉ có một cái giếng cho nên thường xảy ra tranh chấp cãi cọ, xảy ra tranh cướp. Kết quả là Quản Ninh cũng không đi giáo huấn họ, mà tự mình mua rất nhiều thùng rồi sáng sớm đi lấy nước để ở đó. Những người dân này vốn là tranh nhau đi lấy nước, nhưng khi nhìn thấy vị quan của mình đã giúp mình lấy nước xong thì trong lòng cảm thấy hổ thẹn. Đây là lấy hành động của bản thân mà khuyên người khác, thức tỉnh lòng hổ thẹn của họ. Vì vậy, khuyên người khác cũng cần có trí tuệ cao độ.
Khi chúng ta khuyên người khác làm việc thiện, họ có thể sửa đổi và làm cho gia đình họ có sự chuyển đổi rất tốt. Cho nên khi càng có nhiều người như vậy thì chúng ta sẽ càng cảm thấy vui, chúng ta cũng cảm thấy mình đã tận hết đạo nghĩa với bạn bè, cuộc đời này thật có giá trị. Tuy nhiên, “khuyên người hành thiện” cũng cần phải suy xét đến mức độ tiếp thu của họ. Cho nên “giáo nhân dĩ thiện vô quá cao”, không thể ngay lập tức đưa ra tiêu chuẩn quá cao, vì đối phương sẽ cảm thấy rất khó thực hiện. “Đương sử kỳ khả tùng”, phải để cho họ có thể tự tại học tập và thực hiện. Quý vị không thể ngay lập tức đưa ra tiêu chuẩn quá cao, vì như vậy họ sẽ thấy “sao mà xa vời quá!”. Quý vị không thể lập tức nói với họ rằng: “Quý vị phải làm Thánh nhân”, vì sẽ làm cho họ sợ chết khiếp. Quý vị phải bắt đầu từ những việc mà họ có thể làm được như giúp đỡ em trai, giúp đỡ mẹ, làm một người anh tốt, làm một người con hiếu thảo mà thực hiện.
Phía sau trung tâm chúng tôi có một cái sân rất rộng. Có một lần tôi phát hiện thấy rất nhiều rác. Tôi từ tầng trên đi xuống, bắt đầu cùng với một em nhỏ nhặt rác. Lúc đó ở tầng dưới có một số em nhỏ, trong đó có một bé gái đứng ở đó nhìn tôi nhặt rác. Nếu như chúng ta là giáo viên mà lại nói: “Cô bạn nhỏ! Mau ra đây nhặt rác đi!”, cô bé có thể sẽ làm nhưng với thái độ không được vui. Cho nên tôi cứ nhặt và nhặt, sau khi nhặt đến bên cạnh cô bé tôi liền nói: “Cô bạn nhỏ! Em có thể giúp thầy một việc không? Em nhặt cái kia giúp thầy nhé!”. Cô bé liền nhìn tôi rồi sau đó nhặt lên, rồi lại nhặt tiếp cái thứ hai. Sau đó bởi vì bên cạnh tôi còn có một bạn nhỏ cũng đang nhặt rác rất chăm chỉ, cho nên cô bé này liền rất vui vẻ cùng với chúng tôi bắt đầu nhặt rác. Kết quả là nhặt đến khi không còn túi để đựng rác nữa, cô bé tự mình chạy về nhà lấy thêm túi đựng rác đến để đựng. Cô bé nhặt rác cũng rất là hào hứng, từ sân này nhặt ra đến tận đường nhựa. Tôi liền nghĩ: “Không biết phải nhặt bao lâu nữa, chút nữa mình lại có việc phải làm”. Cô bé đã chạy về nhà lấy cái túi đựng rác thứ ba. Khi tôi nhìn thấy cô bé muốn về lấy cái thứ tư thì liền nói: “Cô bạn nhỏ! Hôm nay chúng ta nhặt đến đây thôi. Thầy rất cảm ơn em”. Cho nên chỉ cần quý vị hướng dẫn trẻ nhỏ từng bước, khi chúng bỏ công sức ra nhất định sẽ nhận được niềm vui và có cảm giác được thành tựu. Đương nhiên khi người khác làm việc thiện chúng ta cũng cần phải khen ngợi và khuyến khích họ đúng lúc.

Khi tôi về đến trung tâm, vừa lúc có người bạn thân ở Tân Cương gửi cho tôi một ít nho khô vùng Tân Cương, tôi liền nói với em học trò ở trung tâm rằng: “Nào! Em hãy cầm nho khô đi cảm ơn cô bạn nhỏ lúc nãy! Em hãy cùng ăn với cô bé!”. Kết quả, sau khi mang nho khô xuống, em học trò này lại dẫn cô bé lên trên chỗ trung tâm của chúng tôi chơi. Cho nên việc này cũng là kết được một duyên lành. Sau đó cô bé ấy cũng đến học ở trung tâm chúng tôi. Đây chính là khi chúng ta khuyên người khác làm việc thiện thì đã kết được một pháp duyên tốt. Như vậy, khi khuyên người khác chúng ta cũng phải đứng ở góc độ của người đó để từ từ chỉ dẫn họ làm việc thiện. Đây là “khuyên người làm việc thiện”.
- Điều thứ năm: “Thành toàn việc tốt cho người”
Để làm tốt một việc ở thời đại hiện nay thật không dễ dàng gì. Quý vị thấy tôi cũng đi không biết bao nhiêu nơi ở Đại Lục. Đó là công việc sau khi tôi đã làm được chín tháng. Tình trạng chín tháng trước đó ra sao? Có được thuận lợi không? Quý vị có thấy đằng sau nụ cười của tôi là cả một quá trình rất gian khổ không? Khi đó tôi tứ cố vô thân, hàng ngày phải đi sớm về khuya. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là “đi sớm về khuya một mình”. Sáng sớm đã phải đi, buổi tối đạp xe đạp về, lúc đó cũng đã hơn mười giờ. Về đến nhà, tôi làm một số công việc vệ sinh và giặt quần áo. Sau khi xong việc, nhìn đồng hồ thì đã mười hai giờ. Lúc này tôi mới lên giường và ngủ rất ngon. Cho nên, nếu như có vị nào bị mất ngủ thì có một cách chữa trị rất hữu hiệu là ra sức làm việc. Đây là phương thuốc rất hiệu nghiệm.
Hơn nữa, trong quá trình đó thường có người đến trung tâm chúng tôi, họ nhìn bên này ngó bên kia rồi nói: “Thời nay làm gì có chuyện như vậy! Giảng bài không thu tiền, phát sách cũng không thu tiền, nhất định là có mục đích gì rồi”. Họ không tin bởi vì họ chưa từng thấy qua. Do vậy, tôi thường xuyên gặp rất nhiều người nghi ngờ chất vấn, nhưng chúng tôi cũng rất hoan nghênh họ đến xem, đến kiểm tra. Chúng tôi không ngại họ đến xem, bởi xem rồi thì mới có thể tiếp xúc, mới có thể hiểu được. Ở thời đại này muốn làm việc tốt quả thật không dễ. Vì vậy, khi nhìn thấy người khác hành thiện thì chúng ta nhất định phải cố gắng giúp đỡ họ. Cho dù chỉ là một câu khen ngợi, thì tôi tin rằng đối với họ cũng là một sự khích lệ rất quan trọng. Cho nên chúng ta cũng không nên tiết kiệm lời khen. Đây chính là thành toàn việc tốt cho người.
Tiên sinh Hàn Dũ cũng từng nói rằng: “Khuyên nhủ nhất thời thì dùng lời nói, khuyên nhủ muôn đời thì phải dùng sách”. Đó là có thể đem kinh nghiệm, trí tuệ cả đời của chúng ta viết thành sách để làm lợi ích cho người đời sau. Giống như Tiên sinh Viên Liễu Phàm viết cuốn “Liễu Phàm Tứ Huấn” không chỉ lợi ích cho con cháu đời sau của ông, mà còn lợi ích cho tất cả những ai đã xem qua quyển sách này. Tuy nhiên, khi chúng ta muốn “dùng sách để khuyên bảo muôn đời”, thì có phải muốn viết sách là viết ngay được không? Bởi vậy mà người xưa có câu: “Tam bất hủ”. “Tam bất hủ” nào vậy? Đó là: Lập công, lập ngôn, lập đức. Ba điều này phải đúng theo thứ tự là: Lập đức, lập công, lập ngôn thì mới đúng.
Trước khi chưa lập đức mà đã lập ngôn thì có thể sẽ nói xằng, nói bậy, nói lý luận suông. Có đức hạnh rồi còn phải không ngừng rèn luyện thì mới có thể thông tình đạt lý, mới có thể làm ra những việc cống hiến cho xã hội, đó là lập công. Sau đó họ lại chỉ cho người khác phương pháp làm thế nào để tu thân, làm thế nào để lập nghiệp, đó chính là lập ngôn.
Như chúng ta đã thấy, vào thời nhà Thanh, Tổng Đốc bốn tỉnh là Tiên sinh Tăng Quốc Phan chân thật đã lập đức rồi mới đến lập công, văn chương của ông tự nhiên làm cho người khác được lợi ích vô cùng, bởi vậy ông cũng đã lập được ngôn. Đây đều là thành tựu việc tốt cho người và cũng là khuyên người làm việc thiện.
- Điều thứ sáu: “Cứu người lúc nguy cấp”
Nếu như trên đường chúng ta gặp phải một người bị thương rất nặng thì phải nhanh chóng điện thoại gọi xe cấp cứu (ở Việt Nam số điện thoại gọi cấp cứu là 115). Điều này nhất định phải làm, bởi vì chỉ chậm một giây cũng có thể nguy hiểm đến tính mạng của họ. Trên mạng Đại Phương Quảng có một vị khán giả để lại một lời nhắn. Anh ấy nói anh ấy vốn là muốn tự sát, nhưng bởi vì đã xem mấy bài viết đăng trên trang Đại Phương Quảng nên tâm tình của anh mới bình hòa trở lại. Thời nay có một căn bệnh có sự hủy hoại rất lớn đối với nhân tâm con người, đó là bệnh trầm cảm. Bệnh này rất ghê gớm! Nghe nói giáo viên có tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm cao nhất. Điều này tôi cũng lĩnh hội được, bởi vì khi họ dạy dỗ học sinh, giáo viên phải chịu áp lực đặc biệt lớn về sự an toàn và rất nhiều phương diện khác của học sinh. Hơn nữa, họ còn phải mang danh “giáo viên”, nếu như họ không hiểu biết nhiều đạo lý thì họ cũng rất khó xử. Cho nên chân thật là các thầy cô giáo cũng phải không ngừng học tập, bổ sung kiến thức thì mới có thể tâm an lý đắc đối với nhiều loại đạo lý. Nếu không thì các thầy cô giáo cũng rất dễ chán ghét thói đời, buồn bực không vui. Vì vậy, nếu lời nói của chúng ta có thể từ từ mở được cánh cửa tâm hồn của những người bị bệnh trầm cảm, từ từ giúp họ hiểu rõ được đạo lý, thì đó đã là “cứu người lúc nguy cấp”.
Tôi còn nhớ, khi giảng xong năm ngày ở đảo Tần Hoàng, tôi đã lên xe để về Bắc Kinh. Khi xe còn chưa chạy thì có một phụ nữ đưa hai tay qua cửa kính trước chỗ tôi ngồi. Cô xúc động nói với tôi: “Thầy Thái! Tôi đã có ý định tự sát, nhưng sau khi nghe xong thầy giảng năm ngày này…..”. Khi cô ấy vừa nói thì nước mắt đã rơi xuống. Kỳ thực lúc đó tôi cũng rơi nước mắt cùng với cô ấy, bởi vì tôi chân thật đã cảm nhận được sự chân thành của cô. Cô nói: “Sau năm ngày nghe giảng, tôi đã định vị được thái độ của mình về nhân sinh. Sau này tôi sẽ sống thật tốt”. Chúng ta cảm nhận được trí tuệ của Thánh Hiền đối với con người thời nay chân thật là vô cùng cần thiết. Chính sự cảm nhận và thấu hiểu này sẽ không ngừng thúc đẩy chúng ta không được lười biếng.
Cho nên có rất nhiều bạn bè, có rất nhiều giáo viên hỏi tôi rằng: “Thầy Thái! Hình như thầy không biết mệt? Hình như thầy cũng không bao giờ nản lòng?”. Họ lại hỏi tôi: “Sao thầy lại làm được vậy?”. Tôi trả lời: “Rất đơn giản! Nếu như có một người già tám mươi tuổi quỳ trước mặt quý vị thì quý vị sẽ không nản lòng”. Họ nghe không hiểu. Tôi tiếp tục nói: “Khi tôi ở núi Thiên Mục của Hàng Châu diễn giảng đến ngày thứ ba, sau khi ăn cơm xong đi ra khỏi trai đường thì thấy có một ông lão tám mươi tuổi không biết đã đứng ở đó đợi tôi tự bao giờ. Khi thấy tôi, ông liền quỳ xuống. Cũng may thời học đại học, tôi ở trong đội tuyển cầu lông của trường, nên tay chân của tôi phản xạ khá nhanh. Quý vị đã biết tốc độ của cầu lông nhanh thế nào rồi, muốn trong chớp mắt cứu được cầu thì phản xạ phải rất nhanh. Cho nên phản xạ lúc đó của tôi là hai chân quỳ xuống và trượt đến chỗ ông, đỡ lấy ông. Mấy người trong ban tổ chức đi bên cạnh còn sợ chân tôi cọ sát với nền nhà mà bị thương, cũng may là có thảm trải nền. Tôi vội nói với ông: Thưa ông! Ông hãy đứng dậy mà nói, xin đừng làm như vậy”. Kết quả, ông lão (ông là người Tân Cương) đứng dậy và nói: “Thầy Thái à! Thầy phải hứa với tôi hai việc. Việc thứ nhất, ở Tân Cương chúng tôi không được nghe những lời giáo huấn Thánh Hiền này, cho nên thầy nhất định phải đem những giáo trình này đến giảng ở Tân Cương”. Ông lão đã tám mươi tuổi rồi, con cái ông đều giảng dạy ở trường đại học, vậy xin hỏi: Điều thỉnh cầu này của ông là vì ai? Vì thế hệ mai sau, vì nhân dân nơi ông sinh sống. Hành động này của ông lão đã giáo dục tất cả những giáo viên chúng tôi đang tham gia khóa học này, sự chí công vô tư của ông như vậy đáng để cho chúng tôi noi theo. Vì vậy, những giáo viên và người trong ban tổ chức trong chuyến đi núi Thiên Mục này đến ngày cuối cùng cũng phải rơi lệ vì cảm động, đều cảm thấy sứ mệnh trên vai mình nặng thêm. Tuy là nặng thêm nhưng đây là nặng thêm về số lượng, trọng lượng, còn khi gánh vác thì lại không nặng, bởi vì vai của chúng ta sẽ trở nên vững mạnh, bởi vì chúng ta tin tưởng rằng tất cả Tổ tiên, tất cả Thánh Hiền ở cõi nào đó đều bảo vệ chúng ta, ủng hộ chúng ta. Hơn nữa, chúng tôi cũng vô cùng tin tưởng là “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, nhất định có thể thức tỉnh lòng người.
Ông lão nói tiếp: “Điều thứ hai là hãy tặng cho tôi một bộ đĩa thu bài giảng của thầy ở núi Thiên Mục”. Chúng ta nhìn thấy ông lão tám mươi tuổi mà vẫn còn hiếu học như vậy thì rất đáng để cho chúng ta học tập theo. Tôi đã nói với những người bạn của tôi: “Ông lão đã cung kính, chí thành đối với chúng ta như vậy, thì chúng ta phải ghi nhớ mãi trong lòng. Chúng ta không thể phụ tấm lòng thành này của người ta đối với mình. Quý vị có thể nhớ mãi thì tin là quý vị sẽ không bao giờ lười biếng, không bao giờ nản lòng”. Cho nên, chúng ta làm việc gì cũng đều là bổn phận. Người khác khen ngợi chúng ta, tôn trọng chúng ta thì chúng ta cũng phải ghi nhớ vào lòng. Chúng ta phải tu thân, hành đạo để đền đáp những người đã yêu mến, chúc phúc cho chúng ta. Đây được gọi là: “Cứu người lúc nguy cấp”. Điều thứ sáu cũng liên quan đến con người nên tôi đem nó gộp chung vào.
- Điều thứ bảy: “Hưng kiến đại lợi” (tu bổ có lợi ích lớn).
Chúng ta thấy thời xưa có rất nhiều người thiện tâm đi xây cầu, làm đường để làm ích lợi cho đại chúng. Thời nay thì rất ít có cơ hội để xây cầu, làm đường, bởi những công trình đó do Chính phủ làm. Nhưng thật ra còn có rất nhiều không gian để chúng ta bỏ công sức ra phục vụ người khác. Ví dụ nhìn thấy trên mặt đường có hố sâu thì chúng ta hãy chủ động gọi điện báo ngay cho cơ quan chức năng đến xử lý. Bởi vì hố sâu thì sẽ có hậu quả như thế nào xảy ra? Nếu như có một người say rượu, không tỉnh táo lại phóng nhanh rồi đâm vào cái hố đó, thì có thể người sẽ bay ra khỏi xe. Chúng ta từ điều này có thể thấy được rằng có người có thể sẽ gặp nạn. Tấm lòng nhân từ như vậy thật là khó có được.
Vì vậy, hôm nay quý vị đi trên đường hoặc lái xe trên đường mà nhìn thấy giữa đường có một tảng đá to thì phải nhanh chóng di chuyển tảng đá đó đi nơi khác. Nói không chừng việc này có thể cứu được cả một gia đình. Nơi nơi đều phải có thiện tâm nghĩ cho người khác. Điều này rất quan trọng.
“Hưng kiến đại lợi” chủ yếu là những việc có thể ích lợi cho người khác. Chúng ta phải tùy duyên, tùy phận mà tận tâm, tận lực để làm. Vậy nếu như quý vị đang ở trên đường cao tốc mà nhìn thấy tảng đá to thì có nên dừng lại để di chuyển tảng đá đó không? Phải nhanh chóng gọi điện thoại. Việc này rất nguy hiểm, không thể dừng lại được. Cho nên chúng ta phải linh hoạt, phải biết làm như thế nào mới thích hợp.
Ở Hải Khẩu, khi chúng tôi đi đường thường xuyên thấy có những tảng đá to, bởi vì nhân công ở đó đợi việc làm hoặc tụ tập tán chuyện thì khiêng những tảng đá to để ra giữa đường. Ban ngày người đi đường còn có thể nhìn thấy tảng đá, nhưng ban đêm thì không nhìn thấy, cho nên rất có khả năng va vào tảng đá. Ví dụ như có một người vừa đi vừa gọi điện thoại di động, bất chợt va vào tảng đá thì có thể sẽ bị ngã. Cho nên nhìn thấy vậy chúng ta phải nhanh chóng di chuyển nó đi nơi khác. Có lúc đi qua công trường xây dựng, bất chợt thấy có thanh tre nhô ra, như vậy rất nguy hiểm, không cẩn thận có thể sẽ bị va vào đầu. Nếu chúng ta thấy vậy thì phải tìm mảnh vải đỏ ở gần đó để buộc lên chỗ thanh tre nhô ra. Vì vậy phải tùy duyên, tùy phận. Khi hàng ngày chúng ta đều tùy duyên, tùy phận để làm việc thiện, thì tin là cuộc sống của chúng ta sẽ vô cùng vui sướng, bởi vì giúp người là nguồn gốc của niềm vui. Đó chính là “hưng kiến đại lợi”.
- Điều thứ tám: “Bố thí tài vật làm phúc”
Chữ “tài” ở đây tôi cũng đã giảng rồi, đó có thể là bố thí tiền tài, cũng có thể là dùng sức lao động, kinh nghiệm của chúng ta để giúp đỡ người khác. Cho nên thời nay cũng có rất nhiều người tình nguyện dùng sức lực của mình mà cống hiến. Thật ra, nội tài khó hay ngoại tài khó? Nội tài khó! Quý vị bảo họ quyên góp một trăm tệ, hai trăm tệ thì có thể được, nhưng bảo họ bỏ ra ba tiếng đồng hồ để giúp đỡ, phục vụ người khác thì có thể họ khó mà làm được. Cho nên việc tốt cũng có khó, có dễ, nhưng khó làm mà vẫn làm được thì công đức lại càng lớn hơn. Đây là bố thí tài vật làm phúc.
- Điều thứ chín: “Hộ trì chính pháp”
Quý vị bằng hữu cũng đang hộ trì chính pháp. Quý vị đang làm đó! Bởi vì quý vị đều dùng ánh mắt hiền hòa nhìn tôi, khiến cho tôi có cảm giác sẽ không làm hỏng việc, vì trái tim tôi rất dễ bị tổn thương. Còn nữa, có những vị nghe xong cảm thấy có được một chút ích lợi, cho nên cũng dẫn thêm bạn bè khác đến nghe, đây cũng là đang hộ trì chính pháp. Còn có những bà mẹ dẫn con đến nghe. Người mẹ dẫn con đến nghe thì tin là chồng của bà cũng sẽ rất vui, bởi chỉ cần con cái họ nghe được chính pháp thì có thể hưng vượng được rất nhiều đời. Đây cũng là hộ trì chính pháp.
Do đó, khi Thành phố Đài Nam của chúng ta có rất nhiều thanh niên phát tâm đi giảng Kinh thì chúng ta cũng phải cổ vũ, ủng hộ họ thì họ càng giảng càng tốt hơn. Như vậy thì công đức của quý vị là vô lượng.
- Điều thứ mười: “Yêu quý sinh mạng”
Đối với đồ vật chúng ta cũng phải yêu quý, cho nên mới nói: “Một hạt cơm, một bát cháo có được cũng không phải dễ”, quyết không thể lãng phí. Như vậy, đối với những sinh mạng cũng phải yêu quý.
Ở Úc, khi họ làm đường thường gặp phải những cây lớn. Việc đầu tiên là họ phải xem trên cây có tổ chim nào không. Nếu như có tổ chim thì họ sẽ dừng công trình lại, đợi qua mùa đó chim bay đi nơi khác thì họ mới bắt đầu công trình. Chúng ta có làm được như vậy không? Chúng ta xem người Úc rất thuần phác. Khi chúng tôi ở Úc, chân thật là khi có người đi ngang qua thì đều chào hỏi lẫn nhau. Lòng người rất lương thiện. Một khi lòng người lương thiện thì hoàn cảnh môi trường cũng sẽ mưa thuận, gió hòa. Cho nên những loại rau trồng ở Úc đều rất to, chúng tôi ở đó ăn cũng rất no. Khi con người thật sự tôn trọng sinh mạng, tôn trọng vạn vật, thì vạn vật nhất định sẽ báo đáp lại con người rất tốt.
Bạch Cư Dị cũng có một bài thơ khuyên chúng ta phải yêu quý động vật, yêu quý sinh mạng. Bài thơ có câu rằng: “Mạc đạo quần sinh tính mệnh vi”, chớ nói tính mạng của động vật không đáng giá:
“Chớ nói tính mệnh động vật không đáng giá
Cũng có xương thịt, cũng có da
Khuyên ai đừng bắn chim đầu cành
Chim non trong tổ ngóng mẹ về”.
Chúng ta dùng tâm lý cùng cảnh ngộ đó để mà yêu quý động vật.
Hiện nay có rất nhiều người chuyên môn bắt chim hoang dã để bán cho các em nhỏ. Chúng ta có nên mua không? Tốt nhất là không nên mua. Quý vị càng mua thì họ càng bắt. Khi chúng ta cùng có nhận thức như vậy thì sẽ không mua của họ nữa. Vì điều mà họ muốn là tiền. Họ không kiếm được tiền thì tự nhiên họ sẽ không đi bắt chim nữa. Hơn nữa, những con chim hoang dã này chúng ta có nuôi được không? Rất khó nuôi. Cho nên phải giáo dục con cái ngay từ nhỏ rằng: “Chúng ta không mua thì họ sẽ ít bắt chim hơn, như vậy thì những động vật nhỏ này sẽ không phải rời xa cha mẹ chúng”. Từ nhỏ phải dạy cho con trẻ có tâm từ bi.
Trên đây là mười điều thiện.
Chúng ta cũng biết phải làm sao để phán đoán được việc thiện, cũng biết được nên hành những loại thiện nào. Chúng ta phải ghi nhớ: “Thấy người tốt, nên sửa mình. Dù còn xa, cũng dần kịp”. Hơn nữa, trong quá trình làm việc thiện nhất định phải ghi nhớ một câu: “Đương nhân bất nhượng ư sư”, hành thiện không được thua kém người khác. Cho nên mới có câu nói: “Bất nhượng cổ nhân thị vị hữu chí”. Ý nói khi chúng ta học tập noi theo gương cổ nhân, chúng ta phải có thái độ không thua kém với cổ nhân, thậm chí còn phải vượt hơn so với cổ nhân.
Đây không phải là ngạo mạn. Chúng ta suy nghĩ xem, hôm nay quý vị là cha mẹ, nếu như con cái nói với quý vị rằng: “Cha à! Thế hệ của con không thể vượt hơn thế hệ của cha” thì quý vị có vui không? Quý vị sẽ nói: “Tất cả những kinh nghiệm cần thiết cha đã dạy bảo cho con. Khi cha bằng tuổi con bây giờ thì không hiểu biết được như con. Cha đã đem hết kinh nghiệm để chỉ bảo cho con mà con lại nói là không hơn được cha”. Người cha nhất định sẽ rất buồn. Nếu như mỗi một học sinh học những học vấn của Thánh Hiền đều nói là: “Những vị đó đều là Thánh Hiền. Chúng em không làm được như vậy!”, thì Tổ tiên của chúng ta sẽ nghĩ rằng con cháu không thể dạy dỗ được. Cho nên học tập cũng cần phải có chí hướng, có chí khí “không thua kém với người xưa”. Những người dạy học như chúng ta khi nhìn thấy những em học sinh ưu tú ngày càng trưởng thành thì chúng ta cũng hy vọng sau này chúng sẽ thành công hơn chúng ta, chúng ta cũng sẽ vô cùng hạnh phúc.
Quý vị thân mến! Quý vị gặp được những người thầy tốt thì mới biết quý trọng học vấn của Thánh Hiền. Cho nên chúng ta phải “lập thân hành đạo”, phải vượt qua, phải hơn thầy giáo của mình, thì thầy của chúng ta mới cảm thấy được an ủi. Bởi vậy mới nói: “Học tập quý ở lập chí”. Quý vị không thể mới bắt đầu mà mục tiêu đã rớt ra đằng sau. Cho nên mới nói: “Thấy người tốt, nên sửa mình. Dù còn xa, cũng dần kịp”. Chân thật là những điều giáo huấn của thầy đối với chúng ta có thể là những kinh nghiệm được đúc kết từ mấy mươi năm của thầy. Chân thật là như vậy! Điều này tôi cảm nhận được một cách sâu sắc. Cho nên chỉ cần chúng ta thật thà nghe lời thì nhất định có thể: “Dù còn xa, cũng dần kịp”.
Xin mời xem tiếp phần sau: “Thấy người xấu, tự kiểm điểm. Có thì sửa, không cảnh giác”